Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2013

Sôi động ngày hội văn hóa các dân tộc Việt Nam

Những ngày này, Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam ở Ðồng Mô, thị xã Sơn Tây (Hà Nội) trở nên rộn ràng, sôi động với các hoạt động văn hóa, nghệ thuật của Tuần lễ "Ðại đoàn kết các dân tộc - Di sản văn hóa Việt Nam". Trong không gian rộng lớn vùng cửa ngõ Thủ đô, dưới chân núi Tản Viên, đại diện các cộng đồng dân tộc anh em từ khắp mọi miền đất nước tụ hội về đây, thể hiện nghĩa tình đồng bào và sự thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam.

Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Ðồng Mô, Hà Nội) se lạnh trong tiết trời đầu đông, nhưng trở nên ấm áp hơn khi có sự góp mặt của những đại biểu từ miền núi cao Tây Bắc, Ðông Bắc xuống, từ miền trung- Tây Nguyên và Nam Bộ ra. Anh A Thái, người dân tộc Rơ Măm đang mải miết với những đường rìu điêu khắc tượng, nụ cười hiền lành, niềm nở: "Chúng tôi được mời đến trại điêu khắc Tây Nguyên trong dịp Tuần lễ Ðại đoàn kết các dân tộc - Di sản văn hóa Việt Nam nên vui sướng và tự hào lắm. Dậy từ sáng sớm để chuẩn bị nhưng giờ mới kịp bắt đầu công việc tạc tượng của mình".

Không khỏi ngạc nhiên vì đây là lần đầu chúng tôi được gặp người dân Rơ Măm, một trong những dân tộc thiểu số có số lượng người ít nhất hiện nay (khoảng vài trăm người) trong cộng đồng các dân tộc của vùng đất đỏ ba-dan. Ấy vậy mà theo cách nói của một người Rơ Măm khác là A Khẩn thì sự xa lạ chỉ như "sương gió sớm mau tan".

Trong khi A Thái tập trung, tỉ mẩn với công việc tạc tượng, A Khẩn lại tỏ rõ sự hài hước dù nói tiếng phổ thông còn ấp úng: "Tôi là trưởng đoàn, A Thái là phó đoàn vì đoàn Rơ Măm chúng tôi chỉ có hai người thôi". Ðoạn, anh mỉm cười kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện về người dân tộc Rơ Măm; về làng Le, xã Mô Rây, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum - nơi duy nhất ở Việt Nam có người Rơ Măm sinh sống. Ðàn ông Rơ Măm chỉ mang họ A, phụ nữ Rơ Măm mang họ Y. Tuy số lượng người Rơ Măm ít nhưng sự giao thoa về văn hóa và đoàn kết dân tộc từ lâu đã ăn sâu vào tâm tưởng bà con khi họ có mối quan hệ giao thương, giao lưu văn hóa với nhiều dân tộc khác. Bằng chứng là hai người đàn ông nêu trên dù trẻ tuổi vẫn cho thấy sự hiểu biết và gần gũi trước những người bạn xa lạ: "Chúng tôi gặp rất nhiều các dân tộc anh em ở đây nhưng ấn tượng nhất vẫn là dân tộc Thái. Người Rơ Măm nghe người Thái từ lâu và bây giờ được gặp mới biết con gái Rơ Măm đã đẹp rồi, con gái Thái còn đẹp hơn nhiều". Ðoạn hai anh nhìn nhau cười, tỏ vẻ bẽn lẽn nhưng ẩn sâu trong đôi mắt họ sự gần gũi, gắn kết sâu đậm.

Tuần lễ "Ðại đoàn kết các dân tộc - Di sản văn hóa Việt Nam" thật sự đã đem tới sắc màu ấm áp tại Làng Văn hóa- Du lịch các dân tộc Việt Nam. Dù là nơi tập trung tái hiện, giữ gìn, phát huy và khai thác các di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc Việt Nam, nhưng ít có dịp nào mà toàn bộ các dân tộc thiểu số từ mọi miền đất nước lại tập trung hết về đây trong nhiều ngày để cùng giao lưu, sẻ chia tình thân ái.

Nghệ nhân Ksor Nao, người dân tộc Gia Rai, tỉnh Gia Lai tâm sự: "Ðã từ rất lâu chúng tôi mới được ra Thủ đô trong không khí hân hoan như thế này. Ở đây chúng tôi cũng được thấy buôn làng và các biểu trưng văn hóa dân tộc mình. Tuy nhiên, khác với trong Gia Lai bởi điều đặc biệt là những dân tộc ít người không còn sống riêng lẻ mà được đặt cạnh nhau như những người anh em một nhà, sẵn sàng gần gũi, sẻ chia". Ksor Nao và đoàn của ông đã đi thăm hầu hết các khu làng văn hóa Tây Nguyên ở đây và ông cho rằng, sự tái hiện các ngôi nhà, vật dụng của đồng bào các dân tộc ở mảnh đất ba-dan đúng với thực tế đã khiến họ rất tự hào.

Chúng tôi hòa chung vào nhóm đại biểu các dân tộc lần đầu được về với Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ông Ia Tôrơ ở huyện Chư Prông, Gia Lai lặng người bên ngôi nhà rông ngay giữa trung tâm làng người Gia Rai, mắt rơm rớm: "Tôi đã hơn 70 tuổi, lần đầu được ra Hà Nội, được thấy ngôi nhà của người Gia Rai tại Thủ đô xa xôi mà vẫn cảm thấy gần gũi, thấy rất vui khi các giá trị văn hóa của dân tộc mình được Ðảng, Nhà nước lưu giữ, trân trọng đến vậy".

Ông Ia Tôrơ là cán bộ xã đã nghỉ hưu, được mời tham gia đoàn với trọng trách như một già làng, để cùng đoàn nghệ nhân Gia Rai mang âm hưởng Tây Nguyên và của dân tộc mình góp vui trong ngày hội lớn.

Có một điểm đặc biệt trong Tuần lễ "Ðại đoàn kết các dân tộc - Di sản văn hóa Việt Nam" 2013 là sự tái hiện không gian văn hóa và sinh hoạt của cư dân vùng sông nước phương nam qua Không gian văn hóa chợ nổi Nam Bộ. Ðồng chí Dương Quốc Xuân, Phó Trưởng ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, thành viên Ban Chỉ đạo Tuần lễ cho biết, Không gian văn hóa chợ nổi Nam Bộ được tái hiện không chỉ là hoạt động mua bán hàng hóa mà còn giới thiệu nét văn hóa đặc trưng, truyền thống của đồng bào miền Tây Nam Bộ.

Ông Nhâm Hùng, đoàn Cần Thơ xúc động xen lẫn phấn khởi: "Chặng đường xa mệt mỏi nhưng cũng không thể tin là công sức mình bỏ ra lại đem nhiều niềm vui cho bà con đến vậy. Ở đây, tôi được gặp lại vài người bạn Hà Nội từng đến Tây Nam Bộ, họ khen quá trời". Một bức tranh sống động của chợ nổi được tái hiện rõ nét với những chiếc ghe tấp nập bán buôn, trên đó chất đầy những vật dụng thường nhật cho đến những chiếc ghe chở đầy hoa quả, rồi ghe cắt tóc, ghe vẽ ký họa,... Ở đó, sắc màu, tình cảm con người miền sông nước càng trở nên sống động hơn bao giờ. Mấy cô gái trẻ người Lự của đoàn Lai Châu mãi chẳng chịu rời bước mặc dù chương trình "Phiên chợ vùng cao phía bắc" ngay bên cạnh, gian hàng thổ cẩm và trang phục truyền thống đang tấp nập khách vào xem...

Tuần lễ "Ðại đoàn kết các dân tộc - Di sản văn hóa Việt Nam" lần này còn là cơ hội để không chỉ các dân tộc Việt Nam anh em thể hiện tình đoàn kết một nhà mà còn là dịp để các vị khách nước ngoài, thấy rõ tinh thần đại đoàn kết dân tộc của người Việt Nam. Ðoàn đại biểu đại sứ quán của 20 quốc gia và các tổ chức quốc tế đã tham quan trại sáng tác điêu khắc của đồng bào Tây Nguyên, không gian giới thiệu một số Làng nghề truyền thống và ẩm thực Hà Nội, Quần thể chùa Khmer,... Ai trong số họ cũng tỏ ra ngưỡng mộ sự đa dạng của văn hóa các dân tộc Việt Nam cũng như sự đoàn kết, gắn bó của 54 dân tộc anh em.

Một đại diện nước bạn Ấn Ðộ nhận xét: "Giữa trại sáng tác, mặc dù mỗi người một trang phục truyền thống với màu sắc, hoa văn, kiểu cách khác nhau, song vẫn rất thân mật, vui vẻ giúp đỡ, cùng nhau làm việc và sáng tạo. Người Gia Rai giúp người Rơ Măm xẻ gỗ; người Xê Ðăng cùng người Ba Na tạc tượng. Qua đó có thể thấy: Họ là một khối thống nhất, một dân tộc duy nhất trên mảnh đất này". Không ít du khách nước ngoài cũng đầy thích thú khi được khoác trên mình trang phục người Lự, người Mông... Có lẽ, sự mộc mạc, chân tình và lòng hiếu khách của "các vị chủ nhà" trong mỗi không gian văn hóa dân tộc theo vùng, miền đã thật sự chiếm được tình cảm yêu mến của du khách.

Những sắc màu văn hóa, tình đoàn kết giữa các dân tộc còn được thể hiện qua những chương trình biểu diễn nghệ thuật trọng tâm của Tuần lễ "Ðại đoàn kết các dân tộc - Di sản văn hóa Việt Nam". Ðó là những chiếc nón lá của các cô gái miền xuôi, là những thiếu nữ dân tộc trong trang phục thổ cẩm, là tiếng hát, nụ cười trẻ thơ trong những ngôi nhà yên ấm; là hình ảnh "Lá lành đùm lá rách" đối với đồng bào miền trung ruột thịt; là bức tranh non nước Việt Nam từ Vịnh Hạ Long, Hoàng Thành Thăng Long, Cao nguyên đá Ðồng Văn đến cố đô Huế, di tích Mỹ Sơn...; là không gian Nam Bộ dung dị và đầy yêu thương được tái hiện qua từng điệu hò, khúc đàn ca tài tử da diết, ngọt ngào hay không gian náo nhiệt của hội đua ghe ngo, điệu múa gáo dừa truyền thống của người Khmer...

Có thể nói, mỗi vùng miền với vẻ đẹp riêng, đã cùng nhau tạo nên một nền văn hóa Việt Nam giàu hương sắc. Trong bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Ðại hội các dân tộc thiểu số miền nam tại Plây Cu ngày19-4-1946, Người nhấn mạnh: Ðồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Ðê, Xê Ðăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau... Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt...".

Tình đoàn kết và bản sắc văn hóa truyền thống mãi mãi là sức mạnh của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trên con đường xây dựng và phát triển đất nước hôm nay cũng như mai sau.

Bâng khuâng vẻ đẹp Hà Nội trong sương sớm ban mai

Thu đang qua, Đông đang tới. Thủ đô Hà Nội thời khắc giao mùa đẹp bâng khuâng trong làn sương mờ ảo, lãng đãng mỗi sớm bình minh.

Những ngày này, Hà Nội đang chuyển mình cùng thời khắc giao mùa Thu - Đông. Sáng sớm dạo một vòng quanh hồ Gươm, khó ai kiềm lòng được trước vẻ đẹp bâng khuâng của cảnh vật thiên nhiên trong sương mờ- một nét dịu dàng, đằm thắm rất Hà Nội, giản dị, thân quen nhưng in sâu vào lòng người.

 
 
Bâng khuâng vẻ đẹp Hà Nội trong sương sớm ban mai 1
Trong làn sương ban mai mờ ảo, Hà Nội khoác lên mình vẻ đẹp vừa lãng mạn, vừa cổ kính, huyền ảo.
 
 
 
Bâng khuâng vẻ đẹp Hà Nội trong sương sớm ban mai 2
Cầu Thê Húc lặng im trang nghiêm soi bóng xuống mặt hồ.

Bâng khuâng vẻ đẹp Hà Nội trong sương sớm ban mai 3
Trong tiết trời sương giăng mờ mịt, ẩm ướt, hương Hà Nội càng thêm nồng nàn, say lòng người.

Bâng khuâng vẻ đẹp Hà Nội trong sương sớm ban mai 4
Bao năm nay, người dân Hà Nội vẫn giữ thói quen dạo quanh hồ Gươm mỗi buổi sớm mai...
 
Bâng khuâng vẻ đẹp Hà Nội trong sương sớm ban mai 5
... và lặng yên cảm nhận hương vị trong trẻo, ngọt lành của Hà Nội.

Bâng khuâng vẻ đẹp Hà Nội trong sương sớm ban mai 6
Tháp Rùa cổ kính, trầm ngâm trong làn sương mờ ảo.
 
Bâng khuâng vẻ đẹp Hà Nội trong sương sớm ban mai 7
Một bạn trẻ vừa tập thể dục, vừa tận hưởng không khí ban mai trong lành.

 
Bâng khuâng vẻ đẹp Hà Nội trong sương sớm ban mai 8

Bâng khuâng vẻ đẹp Hà Nội trong sương sớm ban mai 9

Bâng khuâng vẻ đẹp Hà Nội trong sương sớm ban mai 10
Những hình ảnh sinh hoạt bình dị của người dân Hà Nội trong sớm bình minh.

Bâng khuâng vẻ đẹp Hà Nội trong sương sớm ban mai 11
Cụ già râu tóc bạc phơ tập thể dục quanh hồ.

Bâng khuâng vẻ đẹp Hà Nội trong sương sớm ban mai 12
Một vị khách nước ngoài lưu lại hình ảnh lãng mạn của hồ Gươm trong làn sương ảo diệu.

Bâng khuâng vẻ đẹp Hà Nội trong sương sớm ban mai 13
Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử

Bâng khuâng vẻ đẹp Hà Nội trong sương sớm ban mai 14
Mọi người khoác lên mình những chiếc áo dày để chống chọi với cái lạnh của mùa đông đang tới.


Bâng khuâng vẻ đẹp Hà Nội trong sương sớm ban mai 15
Phố phường Hà Nội sớm ban mai tĩnh lặng, bình yên, đẹp mơ màng trong làn sương lãng đãng.

Hấp dẫn trước vẻ đẹp của Mũi Điện

(MYTOUR.VN) - CÓ LẼ ĐỊA DANH MŨI ĐIỆN (MŨI ĐẠI LÃNH) ĐÃ QUÁ QUEN THUỘC VỚI NHỮNG NGƯỜI CON XỨ NẪU VÀ NHỮNG NGƯỜI YÊU THÍCH DU LỊCH CẢ NƯỚC. MŨI ĐIỆN LÀ MỘT THẮNG CẢNH TUYỆT ĐẸP THUỘC XÃ HÒA TÂM, H.ĐÔNG HÒA, PHÚ YÊN. ĐÂY LÀ ĐIỂM ĐẾN THÚ VỊ CHO NHỮNG NGƯỜI THÍCH KHÁM PHÁ, DU LỊCH.

Quãng đường khoảng 35km từ trung tâm thành phố Tuy Hòa cũng không thể gọi là xa, nhưng với một số người, họ có thể e ngại khi trời hè “nắng cháy da đầu” như thế này. Và đó thật sự là một cảm giác khác biệt khi bước lên xe và đặt chân xuống nơi đây. Xa rời cái nắng khô khan của thành phố, bên bạn sẽ là những cơn gió biển mát mẻ, làn nước trong xanh quyến rũ, trải nghiệm khi đặt chân lên ngọn hải đăng sừng sững để trải tầm mắt hay là người đã chinh phục điểm cực Đông trên đất liền Việt Nam và sự thân thiện từ ngôi nhà mà chúng ta gửi xe đến những người lính giữ hải đăng luôn vui vẻ, nhiệt tình.


Nơi này còn có tên gọi khác là mũi Đại Lãnh, mũi Nạy hay Cap Varella. Đây là nơi có doi đất liền nằm trên triền núi Bà của vùng núi Đại Lãnh thuộc dãy Trường Sơn nhô xa nhất ra biển Đông của Tổ quốc. Về mặt lịch sử, cuối thế kỷ 19, một người Pháp tên Varella phát hiện và ghi dấu tầm quan trọng của địa chỉ này trên bản đồ hàng hải. Đến năm 1890, Pháp xây dựng hải đăng trên đỉnh mũi Điện. Và do hoàn cảnh lịch sử, ngọn hải đăng nhiều năm tạm ngưng hoạt động, mãi đến 1995, nhà nước xây dựng lại và hải đăng chính thức hoạt động. Trên mũi Điện là ngọn hải đăng khối hình trụ cao 26,5 m so với nền tòa nhà và cao 110 m so với mặt nước biển. Đây là một trong 45 đèn biển cấp quốc gia với tín hiệu ánh sáng có thể đi xa 27 hải lý. 

Ngoài ý nghĩa lịch sử, cụm thắng cảnh mũi Điện, bãi Môn, Vũng Rô là điểm đến lý tưởng, thu hút sự chú ý của nhiều người. Đến đây, trước hết hãy thực hiện cuộc hành trình đi bộ theo con đường đá uốn theo sườn núi để đặt chân lên mũi Điện. Sau đó lên ngọn hải đăng, phóng tầm mắt ra xa để nhìn thấy một màu nước biển trong xanh, từng con sóng nhấp nhô cuộn đều vào bãi cát vàng tuyệt đẹp. Nếu ở lại qua đêm, không gì hấp dẫn bằng việc đứng trên điểm cực đông của đất liền ngắm ánh bình minh đầu tiên của một ngày mới.

Sau khi tham quan ngọn hải đăng, xuống núi thả mình trong làn nước trong xanh và mát lạnh ở thắng cảnh bãi Môn ngay dưới chân ngọn hải đăng để cảm nhận sự tinh khiết của đất trời. Từ bãi Môn, có thể ngắm nhìn đỉnh ngọn hải đăng cao vút, những vách đá to tạo thành khối chồng lên nhau dựng đứng như những kiệt tác thiên nhiên. Đến mũi Điện, du khách còn có thể ghé thăm di tích lịch sử của con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển. Trong kháng chiến chống Mỹ, hành trình vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam đã có 4 chuyến tàu không số cập bến Vũng Rô, trong đó có tàu 143 anh hùng tạo nên sự kiện Vũng Rô, một trong những khúc tráng ca vĩ đại của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển. 

Đi theo con đường hướng về cảng Vũng Rô, bạn sẽ thấy được đường giao cắt để đi lên lại Quốc lộ 1A, nằm trên Đèo Cả, ngược về hướng Bắc để trở về thành phố Tuy Hòa. Trên đoạn đường này, màu biển xanh mát sẽ được thay thế bằng màu xanh của cỏ cây, đồi núi, màu xanh của mạ non mới được gieo trên các cánh đồng trải dài sẽ giúp bạn thư thái trên quãng đường trở về.

Một ngày trôi qua với nhiều cảm giác thú vị, hòa mình vào thiên nhiên, sự thỏa mãn khi chinh phục tầm cao của ngọn hải đăng hay xa một chút là cột đánh dấu điểm cực Đông trên đất liền, hiểu thêm về lịch sử về vùng đất anh hùng hay những khoảnh khắc khó quên với người thân, bạn bè,… Đó sẽ là một ngày nghỉ đáng nhớ với bạn và mọi người và giúp bạn có tinh thần cho những ngày hoạt động sắp tới để khám phá, chinh phục những mục tiêu mới!

 

Đừng tận thu di sản

Di sản sẽ mang lại nguồn lợi, trong đó có tiền, nhưng nhất định không tận thu di sản.

 


Phố cổ Hội An đã thay đổi cuộc sống cho người dân theo hướng tích cực - Ảnh: Bạch Dương 

Đạo diễn người Pháp Philippe Bouler mỉm cười, gật đầu khi nghe tới Festival Huế. Ông đã gắn bó với nó 10 năm, từ ngày đầu gây dựng. Công việc của ông bộn bề, từ lên khung toàn bộ đến duyệt chi tiết từng chương trình nhỏ. Những màn múa lộng lẫy trên nước, với giọng ca trù ảo diệu của “tiếng phách trạng nguyên” Phó Thị Kim Đức. Ngựa giấy cốt tre tung vó trên trời vào lễ hội diều. Và cả những vườn rau cũng mở hội dưới bàn tay tổng chỉ huy của ông.  “Huế đã có nhiều tiến bộ rõ rệt. Mới 12 năm, chưa phải là một lễ hội lâu đời, nhưng thành phố đã thay đổi nhiều nhờ lễ hội. Nhiệm vụ đầu tiên chúng tôi đạt được, đó là phát triển kinh tế thành phố nhờ du lịch văn hóa, du lịch di sản. Đó là một thành công”, ông nói.

Bí quyết để Huế giàu có hơn, theo ông Philippe Bouler chính là phải biết khai thác bản sắc văn hóa của chính mình. Bản sắc Huế nằm ở những lăng tẩm hàng thế kỷ. Nó cũng nằm ở những nhà vườn xinh xắn, nơi khách du lịch thử nghiệm công việc của nông dân. Đó cũng là những bữa tiệc cung đình, nơi rồng phượng bay vờn trong cách trang trí từng món ăn cầu kỳ. “Điều quan trọng nhất là phải hiểu đúng bản sắc của mình để phát triển nó”, vị đạo diễn của nhiều Đêm trắng - một sự kiện di sản tại Pháp - nói.

Không chỉ tại Huế, nhiều di sản trong nước đã thay đổi cuộc sống cho người dân theo hướng tích cực. Cũng trong dải di sản ở miền Trung, từ Huế, chỉ đi thêm vài giờ ô tô là có thể tới Hội An. Ở đó, du lịch đã mang lại một mạch đập khác cho vùng đất từng là cảng thị nổi tiếng này. Những ngôi nhà cổ vẫn đứng cạnh chùa Cầu. Khu phố cổ san sát cửa hiệu. Sát bến sông có thêm cả không gian cho bài chòi đối đáp khi đèn lên.

Sau hiểu sai là tận thu, tận diệt

“Từ giữa những năm 1990, một sự thay đổi quan trọng liên quan đến công tác bảo tồn di sản văn hóa ở Việt Nam là sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế du lịch”, theo một nghiên cứu do UNESCO Việt Nam thực hiện. “Sự phát triển của du lịch đã tạo ra một môi trường mới cho sự hồi sinh của nhiều thực hành văn hóa cổ truyền sau nhiều năm bị lãng quên và mai một. Nguồn lợi kinh tế từ việc bán các sản phẩm văn hóa cho khách du lịch đã trở thành chất xúc tác cho người dân tự sưu tầm và tái tạo các thực hành và giá trị văn hóa truyền thống của họ”.

 Tuy nhiên, điều dễ thấy là di sản đang bị “bán rẻ”, bóp méo khi khai thác.

Cũng theo nghiên cứu của UNESCO Việt Nam, cồng chiêng của người Lạch ở Lâm Đồng đang khác đi so với cồng chiêng truyền thống. Tuy cồng chiêng truyền thống của người Lạch vẫn còn được sử dụng trong tang ma, nghi lễ pơthi, song tại các buổi giao lưu, đã có sự “thiên vị nhạc hiện đại”. Điều này khiến các già làng không đồng tình. “Họ bỏ tiền ra thì coi như là mình cũng phải phục vụ họ trong cái chương trình của mình”, một già làng cho biết trong phỏng vấn xã hội học. Tiền thu được từ du lịch đã bóp méo di sản cồng chiêng của ông.

Một hiện tượng khác đã được giới nghiên cứu cảnh báo là khai thác quá tải các di sản văn hóa. Tại hội nghị Việt Nam học mới nhất, một nhóm nghiên cứu Anh - Việt đã lên tiếng về việc quá nhiều khách, quá nhiều đèn chiếu đã làm hỏng lớp thạch nhũ của Phong Nha, Kẻ Bàng. Đèn chiếu sáng đã khiến nhũ không còn tươi mới. Du khách cũng làm bong tróc nền hang hóa thạch, làm bãi cát ngầm mất đi vẻ tơi xốp tự nhiên.

Cũng theo nghiên cứu của UNESCO về đền Hùng, quan điểm mở rộng xây dựng hạng mục phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí không được phù hợp. Chưa kể kế hoạch này còn tác động mạnh vào không gian sinh tồn của cư dân quanh vùng di sản. “Việc xây dựng khu vui chơi giải trí trong không gian thiêng sẽ làm ảnh hưởng nặng nề đến môi trường sinh thái ở núi Nghĩa Lĩnh. Nó cũng làm giảm tính thiêng của không gian thờ cúng Hùng Vương”, báo cáo cho biết.

“Muốn làm giàu từ di sản phải hiểu những nguyên lý của di sản đó”, PGS-TS Lương Hồng Quang, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa nói. “Ngoài ra, cần phải cân bằng giữa lợi ích của doanh nghiệp - cộng đồng - nhà nước. Trong việc cân bằng đó không bao giờ được quên người dân mới chính là chủ của di sản”.

Tuy nhiên, từ góc độ chính sách, UNESCO lại nhận định: “Trong khi cơ quan văn hóa là tổ chức chính chịu trách nhiệm bảo tồn di sản, tiếng nói của cơ quan này lại không được coi trọng trong các lĩnh vực quy hoạch và phát triển kinh tế xã hội. Điều này đã dẫn đến sự suy giảm và biến mất của nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Khi di sản văn hóa không đem lại giá trị kinh tế thì dễ có nguy cơ bị loại bỏ hoặc thay đổi chức năng sử dụng”.

Nhìn lại chính sách, đặt chính sách trên nền tảng hiểu đúng di sản - đây là cách buộc phải làm để di sản không còn bị tận thu, tận diệt.

Tháng: Mua sắm Việt Nam

Sáng 22-11, Sở Công thương và Sở Văn hóa - thể thao và du lịch TP.HCM đã chính thức phát động tháng khuyến mãi với tên gọi “Mua sắm Việt Nam” tại trung tâm thương mại Crescent Mall (Q.7). Đây được coi là sự kiện quan trọng thúc đẩy mua sắm, du lịch dịp cuối năm.

Theo kế hoạch, tháng khuyến mãi tết sẽ được thực hiện từ ngày 27-11-2013 đến hết 1-1-2014. Chương trình sẽ đồng loạt thực hiện khuyến mãi tại các điểm mua sắm lớn, trung tâm mua sắm có nhiều khách tham quan, các doanh nghiệp khách sạn, lữ hành..., hội chợ khuyến mãi hàng hóa với rất nhiều mặt hàng như may mặc, mỹ phẩm, thời trang, thực phẩm, dịch vụ ẩm thực, giải trí...

Ông Lã Quốc Khánh, phó giám đốc Sở Văn hóa - thể thao và du lịch TP.HCM, cho biết những năm trước đây các sở từng phối hợp thực hiện chương trình này, tuy nhiên chỉ dừng lại ở mức độ mỗi năm một lần vào tháng 9. Nhưng du lịch thì không thể chỉ có một mùa, vì vậy cần phải thực hiện xuyên suốt hoạt động khuyến mãi từ tháng 9 đến cuối năm nhằm kích cầu tiêu dùng, từ đó cũng thúc đẩy phát triển du lịch.

Cũng theo ông Khánh, lần tổ chức này không chỉ có hoạt động thương mại mà toàn bộ hoạt động du lịch cũng phải tham gia, từ lữ hành, ẩm thực, khách sạn... đều phải có chương trình khuyến mãi, giảm giá dành cho du khách.

Tuyên bố Ninh Bình về du lịch vì sự phát triển bền vững

Hội nghị quốc tế về Du lịch tâm linh vì sự phát triển bền vững được Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO), Bộ VHTTDL và UBND tỉnh Ninh Bình tổ chức trong 2 ngày 21, 22.11 tại chùa Bái Đính (TP.Ninh Bình). UNWTO xem Ninh Bình như là một trường hợp đặc biệt về sự phát triển thành công du lịch tâm linh.

 

Hội nghị có sự tham gia của trên 350 đại biểu quốc tế và trong nước từ các tổ chức quốc tế, cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan du lịch quốc gia các nước và vùng lãnh thổ…

Bài phát biểu của ông Nguyễn Văn Tuấn - Tổng Cục trưởng Tổng cục Du lịch - cho thấy nhu cầu du lịch tâm linh ở VN. Cụ thể, một số khu du lịch tâm linh tiêu biểu của VN đã tăng lên không ngừng trong 5 năm trở lại đây. Điển hình là chùa Bái Đính, lượng khách tăng từ 1,1 triệu lượt người (năm 2008), tăng lên 2,13 triệu lượt người (2012), tăng trung bình 27,8%/ mỗi năm. Sau đó là Yên Tử với mức tăng trung bình là 19,8%/mỗi năm; Côn Sơn – Kiếp Bạc (17,4%); Miếu Bà Chúa Xứ (10,5%)... Qua gần 20 tham luận tại hội nghị cho thấy, không chỉ ở VN, mà các nước khác có du lịch tâm linh phát triển như Butan, Ấn Độ, Tây Ban Nha...thì đi đôi với đà tăng trưởng cao sẽ là các hệ lụy về môi trường, về mai một văn hóa, về những dịch vụ mang tính thời vụ và những mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển - những vấn đề không dễ có lời giải.

Chính vì lẽ đó, hội nghị đã kết thúc với việc ra “Tuyên bố chung Ninh Bình về du lịch tâm linh vì sự phát triển bền vững”. Tuyên bố kêu gọi các bên liên quan: Tăng cường các khuôn khổ chính sách, các hoạt động kinh doanh có trách nhiệm và các nghiên cứu về du lịch tâm linh, trên cơ sở hợp tác chặt chẽ với cộng đồng địa phương, bảo vệ và giữ gìn các giá trị truyền thống; Tạo dựng các điều kiện phù hợp để sử dụng tài nguyên du lịch, sản phẩm du lịch tâm linh một cách có trách nhiệm và bền vững trong quá trình phát triển du lịch tâm linh nhằm tạo cơ hội việc làm, tăng cường đa dạng hoá sản phẩm, bảo tồn giá trị văn hóa bản địa;

Khuyến khích giáo dục và đào tạo nâng cao năng lực, hiểu biết của cộng đồng trong việc quản lý du lịch và tham gia xây dựng chính sách; Thúc đẩy và ủng hộ sự tiến bộ về kinh tế - xã hội của cộng đồng, các nhóm dân cư thông qua phát triển du lịch tâm linh, đặc biệt đối với người dân bản địa, dân tộc thiểu số, phụ nữ, thanh niên và người tàn tật; Tăng cường hợp tác quốc tế, thúc đẩy hòa hợp, đảm bảo sự tồn tại của các giá trị truyền thống thông qua thế hệ tương lai; Ủng hộ các nỗ lực nhằm tạo điều kiện cho việc liên kết các điểm du lịch tâm linh trên toàn thế giới.