Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013

Đến và trải nghiệm với làng nghề Hà Nội

(Mytour.vn) - Hơn đâu hết đất Thăng Long xưa - Hà Nội nay là nơi tập trung đông đảo các làng nghề truyền thống. Sự phát triển của làng nghề không chỉ có vai trò nâng cao mức sống mà còn là dấu ấn truyền thống văn hóa dân tộc tại mỗi thời kỳ. Đến với mỗi làng nghề Hà Nội, du khách sẽ tìm thấy những giá trị văn hóa truyền thống ẩn chứa trong cảnh quan quen thuộc của vùng đồng bằng Bắc Bộ:

Nơi ấy còn có những nghệ nhân giỏi, được coi là "bảo tàng sống" của mỗi làng, nghe họ kể về quá trình hình thành, phát triển nghề, kinh nghiệm của những người đi trước truyền lại và được tận mắt chứng kiến những đôi bàn tay "vàng" điêu luyện tạo ra những sản phẩm mang đặc trưng của mỗi làng nghề.

 


Hướng dẫn viên chính là những người thợ của làng, sẽ đem đến cho du khách giây phút thú vị qua lời giới thiệu mộc mạc nhưng rất có chiều sâu…Có thể nêu ra rất nhiều làng nghề như thế. Chẳng hạn, nếu chọn đi từ trung tâm Hà Nội, dọc theo Quốc lộ 1A khoảng 20km về hướng Nam, du khách đến với làng thêu Quất Động, làng may Thạch Xá; làng Duyên Thái, Chuyên Mỹ chuyên về nghề sơn mài, khảm trai; Làng Nhân Hiền giỏi nghề điêu khắc đá. Rồi làng Vác làm quạt giấy, lồng chim; Làng Chuông làm nón, làng mây tre đan Phú Vinh với hàng mây xiên được mệnh danh là đỉnh cao của nghệ thuật đan lát Việt Nam; Làng giò chả Ước Lễ; Làng bún Liên Bạt… Các làng nghề liền kề, nối nhau san sát, có khi chỉ cách nhau một cánh đồng lúa hoặc một dòng sông…

Và trải nghiệm

Điều thú vị nhất đối với du khách trong các tour du lịch tại các làng nghề Hà Nội là được trải nghiệm cuộc sống nơi đây. Chẳng hạn đến với làng gốm sứ Bát Tràng, du khách sẽ cảm nhận được sự hòa quyện tuyệt vời giữa nước, lửa và tâm hồn người Việt. Với trên 2.000 lò gốm, Bát Tràng là niềm tự hào về một làng nghề gốm sứ truyền thống.

 


Thời gian trôi qua, sản phẩm của làng đã phát triển và trở nên nổi tiếng cả trong và ngoài nước với chất lượng, màu men, kiểu dáng mang nét đặc trưng của làng nghề cổ bên bờ sông Hồng. Tới tham quan làng gốm cổ Bát Tràng, du khách có thể đi bộ quanh làng hoặc đi trên những chiếc xe trâu kéo. Du khách cũng có thể tự tay nhào đất, nặn, tạo cho mình một sản phẩm nào đó tại khu xưởng của một gia đình làm nghề trong làng. Được chiêm ngưỡng bàn tay khéo léo của những người thợ thủ công tỷ mẩn vuốt từng chi tiết trên bàn xoay gốm, du khách còn được đến tham quan nhiều địa điểm đẹp và thú vị khác như: Đền Mẫu, thờ người con gái Bát Tràng được dân gian suy tôn với mỹ hiệu “Thành Mẫu Bản Dương”, bức tượng Cửu Long đẹp và cao quý…

Đến với làng lụa Vạn Phúc, du khách được nghe giai điệu quen thuộc của những tiếng thoi đưa dệt lụa. Dưới bàn tay tài hoa, khéo léo của những người thợ dệt làng Vạn Phúc dựa trên kỹ thuật truyền thống đã tạo nên nhiều sản phẩm vải lụa độc đáo như vân, sa, nhiễu, gấm, vóc… được khách hàng trong và người nước ưa chuộng.

Đến với Phú Vinh, một làng quê nổi tiếng bao đời với nghề đan lát. Du khách có thể bắt gặp cảnh người già, con trẻ say sưa bên những sản phẩm mây tre đan và luôn nở nụ cười thân thiện đón chào du khách.

Du lịch làng nghề Hà Nội là vậy, song với nhiều người ưa thích sự khám phá, những làng nghề chưa bị các công ty du lịch khai thác triệt để thường là điểm đến lý tưởng. Trước những nét đẹp đơn sơ, những giá trị văn hóa còn nguyên hình, nguyên trạng, mỗi người sẽ có những cảm nhận riêng, những khám riêng cho chính bản thân mình sau mỗi chuyến đi…

 

Đã từng có thời Hà Nội có Hàng Khảm

(Mytour.vn) - Theo những nghiên cứu và sử sách để lại thì được biết ngày xưa Hà Nội có tên phố là phố Hàng Khảm. Theo một công trình nghiên cứu của Giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương André Masson, vào khoảng năm 1820, Hà Nội đã có tên phố Hàng Khảm (Rue des Incrusteurs), tại đó có nhiều nhà vừa sản xuất vừa bán hàng khảm xà cừ, khảm trai…

Khu phố cổ Hà Nội là tên gọi thông thường của một khu vực đô thị có từ lâu đời của Hà Nội nằm ở ngoài hoàng thành Thăng Long. Khu đô thị này tập trung dân cư hoạt động tiểu thủ công nghiệp và buôn bán giao thương, hình thành lên những phố nghề đặc trưng, mang những nét truyền thống riêng biệt của cư dân thành thị, kinh đô. Ngày nay khu phố cổ Hà Nội là điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn du lịch khám phá về Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.

Đầu năm 1885, phố Hàng Khảm trở thành một phố được trải đá dăm khá tốt, rộng từ 16 mét đến 18 mét, các cửa hàng hầu như của người châu Âu. 

Từ khi thực dân Pháp đắp lại con đường nối từ Đồn Thủy (cửa khu Nhượng địa) tới Cửa Nam thành cổ, thành một con đường rải đá, đổ nhựa, dài chừng 1,5km, và họ gọi đường này là phố Hàng Khảm. Nghĩa là, phố Hàng Khảm khi ấy có chiều dài bao gồm phố Tràng Tiền, phố Hàng Khay và phố Tràng Thi ngày nay. Theo công trình nghiên cứu của Giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương André Masson, vào khoảng năm 1820, Hà Nội đã có tên phố Hàng Khảm (Rue des Incrusteurs). Họ đặt tên phố như vậy bởi quãng từ gần trường đúc tiền (thuộc phố Tràng Tiền ngày nay) đến giáp trường thi Hương của Hà Nội (nay thuộc phố Tràng Thi) có nhiều nhà vừa sản xuất vừa bán hàng khảm xà cừ, khảm trai như sập gụ, tủ chè, bàn ghế, tráp, cơi trầu, khay trà... Tuy nhiên, các hàng khảm đều nằm chủ yếu ở đoạn mé nam hồ Hoàn Kiếm.

 


Lùi ngược vài thế kỷ thì thấy, trên đất Thăng Long đã có nhiều thợ thủ công khéo tay; lại có những thợ thủ công gốc Nam Định lên Kinh kỳ lập nghiệp trải qua nhiều đời; đặc biệt, có những thợ thủ công mỹ nghệ rất giỏi nghề khảm trai gốc làng Chuyên Mỹ, Phú Xuyên, trấn Sơn Nam, lên hành nghề ở Thăng Long, rồi định cư ở đất này. Những thợ khảm trai và xà cừ gốc làng Chuyên Mỹ (tên Nôm là làng Chuôn) lên Thăng Long, sống tập trung tại làng Cựu Lâu và họ đã lập tại đây đền thờ Nguyễn Kim - Tổ nghề khảm trai Chuyên Mỹ. Làng Cựu Lâu ở vị trí thuộc khu vực phố Tràng Tiền, Hàng Khay ngày nay. Trải nhiều thời gian hành nghề trên đất Thăng Long - Hà Nội, đến thế kỷ XIX, kỹ nghệ chạm khảm có bước phát triển mạnh khi người Pháp đặt chân tới đất này. Các thợ thủ công đã có sự cạnh tranh khi nền kinh tế hàng hóa đã hình thành tại Hà Nội, khiến nhịp độ phát triển của nghề này càng nhanh. Và tất yếu, một phố nghề chính thức được ra đời, đó là phố Hàng Khảm.

Thời mới lập phố Hàng Khảm, đầu phố là Đồn Thủy, một đồn binh lớn, cuối phố, chỗ Cửa Nam thành Hà Nội, cũng có một trại lính Pháp, chỉ một quãng (tương đương Tràng Tiền - Hàng Khay ngày nay) là có nhà ở và cửa hiệu. Quãng phố này có một cổng lớn mở từ làng Cựu Lâu ra, nên gọi là cổng Cựu Lâu. Cổng này có hai trụ xây khá lớn, trên mỗi trụ có một con sư tử đá, tạo tác đơn giản nhưng oai nghiêm. Phố Hàng Khảm lúc ban đầu như A.Masson mô tả là “một con đường rộng chưa tới 3m đầy những hố nước tù đọng”. Và cũng theo A. Masson, chỉ một năm sau đã trở thành “một con đường rất rộng, chỉ còn thiếu những ngôi nhà kiểu châu Âu. Hai bên phố là những ngôi nhà lá. Hai, ba cửa hiệu của người Tàu, rất sạch và lịch sự, nằm đầu dãy các cửa hàng...”. Chính thời gian mở rộng đường phố đã phải phá bỏ cổng Cựu Lâu. Năm 1885, Đốc lý Hà Nội là Halais cho lập quy hoạch vùng quanh Hồ Gươm với một tiến trình là đến hết năm 1886 phải dỡ tất cả nhà lá và làm thay vào đó những ngôi nhà xây gạch lợp ngói. Có một dấu vết khá thú vị còn sót lại đến đầu thế kỷ XXI là trên “trán” ngôi nhà số 3 Hàng Khay vẫn còn dòng chữ đắp nổi năm xây nhà - 1886. Tuy nhiên, vào chính năm 1886, Tổng trú sứ Paul Bert qua đời, chính quyền thực dân cho cắt một đoạn phố Hàng Khảm, từ cửa ô Tây Long (khu vực Nhà hát Lớn ngày nay) đến ngã tư Hàng Giò, Hàng Thêu (ngã tư Bà Triệu, Lê Thái Tổ ngày nay), đặt tên là phố Paul Bert. Năm 1900, trên tạp chí Revue Indochinoise, ông Dumoutier, một học giả người Pháp, đã mô tả: “Mặt phố Paul Bert đoạn áp hồ (Gươm) toàn là nhà các thợ khảm. Những ngôi nhà này hẹp và thấp, xây bằng gạch, lợp ngói. Mặt trước nhà nào cũng có mái che lợp lá, gian giữa trông ra hồ...”.

 


Có một điều rất lạ là, khi chính quyền thực dân đặt tên phố Paul Bert năm 1886, nhiều người dân Hà Nội đã gọi đoạn trên phố, nơi vốn có trường đúc tiền, là Tràng Tiền, đoạn tiếp đó là Hàng Khay. Và, phần còn lại của phố Hàng Khảm nhưng không có nhà nào làm và bán đồ khảm trai, xà cừ, thì người ta cứ gọi là Trường Thi vì đây vốn là khu vực tổ chức thi Hương ngày xưa, ít lâu sau thì gọi là phố Tràng Thi. Và dần dần tên phố Hàng Khảm cũng lu mờ trong đời sống. Cho đến năm 1945, Tràng Tiền, Hàng Khay, Tràng Thi trở thành tên chính thức của ba phố ấy, và phố Hàng Khảm lùi sâu vào ký ức của Thăng Long - Hà Nội...

 

Làng nghề gốm sứ Thanh Hà

(Mytour.vn) - Làng gốm Thanh Hà với quá trình phát triển 500 năm, thế mà có lúc người ta đã quên mất rằng Thanh Hà có nghề làm gốm rất độc đáo. Thế nhưng với tâm huyết của những người cao niên trong làng, gốm Thanh Hà lại dần được phục hồi. Đến làng gốm Thanh Hà bạn sẽ thoả sức ngắm nhìn những hình ảnh của gốm sứ.

 Địa điểm:
- Làng gốm Thanh Hà thuộc phường Thanh Hà, thành phố Hội An, Quảng Nam.
- Làng gốm Thanh Hà nằm ngay bên bờ sông Thu Bồn, cách phố cổ Hội An chừng 3 km về hướng Tây.
- Từ đô thị cổ Hội An đi về phía Vĩnh Điện theo đường Duy Tân sẽ gặp bảng chỉ đường đến làng gốm.

 


Nằm cách Hội An 3 Km về hướng Tây, vào thế kỷ 16, 17, Thanh Hà là một ngôi làng rất thịnh đạt, nổi tiếng về các mặt hàng gốm, đất nung được trao đổi, bán buôn khắp các tỉnh miền Trung Việt Nam. Nghề gốm của làng có nguồn gốc xuất xứ từ Thanh Hóa, sau khi đã tiếp thu được một số vốn luyến kỹ thuật thì làng đã hình thành một làng gốm như ngày nay.

Lịch sử hình thành và phát triển:

 


Ngược về lịch sử, cư dân Thanh Hà có nguồn gốc chủ yếu ở vùng Thanh Hóa, Nam Định, Hải Dương vào định cư từ khoảng cuối thế kỉ 15. Trong buổi sơ khai, khi đồ dùng của đại bộ phận dân cư chủ yếu là đồ gốm sứ, đất nung thì cư dân ở đây đã tiếp tục truyền thống của cha ông, khai thác địa thế thuận lợi của vùng đất mới để phát triển nghề gốm. Theo cách nhớ của người làng Thanh Hà thì năm 1516, nghề gốm bắt đầu sản xuất tại làng Thanh Chiêm ( nay là khối phố 6 phường Thanh Hà ), sau đó do không hợp phong thủy nên dời lên Nam Diêu ( tức khối phố 5 phường Thanh Hà ), Nam Diêu có nghĩa là lò gốm phía Nam.

 


Hiện nay tại Nam Diêu còn miếu Tổ nghề của làng. Hằng năm, người dân làng gốm tổ chức lễ tế Xuân vào ngày mồng 10 tháng Giêng nhằm cúng tổ tiên, mong cho chư thần, tổ nghề và các bậc tiền nhân ban cho năm mới bình an, làng nghề phát triển.
Nhiều thế kỉ qua, nghề làm gốm và gạch ngói ở Thanh Hà nổi tiếng không chỉ ở xứ Quảng mà cả nước và nước ngoài.Trong sách Phủ Biên Tạp Lục học giả Lê Quí Đôn có đề cập đến gốm ” Cochi”, ” Cauchi” ( Giao Chỉ) mà người nước ngoài ưa chuộng có cả gốm Thanh Hà xứ Quảng.Và  kể từ thế kỉ 17 trở lui, do việc tái tạo thành phố Hội An mà sinh ra ngành gạch ngói rất thịnh hành ở Thanh Hà.
Không chỉ phục vụ cho nhu cầu địa phương các vùng lân cận mà còn trở thành một mặt hàng trao đổi mua bán cho cả xứ Đàng Trong. Khi nhà Nguyễn chọn Phú Xuân làm kinh đô, nhiều nghệ nhân được gọi ra Huế xung vào đội thợ xây dựng cố cung. Có người được vua phong đến hàm Bát phẩm, đó là những Chánh Ca, Bát Luyện.

 


Thuở trước làng gốm Thanh Hà đông đúc với 30 bàn xoay, trăm lò nung nghi ngút khói, cả ngàn thợ thầy làm việc tất bật mỗi năm 6 tháng nắng ráo. Hiện nay cả làng chỉ còn 8 lò gốm với khoảng 35 lao động trong đó chỉ có mươi người thợ giỏi đó là: Bùi Liêu, Ban Sáu, Nguyễn Vinh, Nguyễn Cử, Nguyễn Sao, Lê Phát…Riêng nghề sản xuất gạch ngói có 74 hộ với 455 lao động tập trung ở khối phố 3,4,5,6  phường Thanh Hà.

Sản phẩm:
Làng gốm với những sản phẩm như: lu, chum, vại bình hoa, chậu cảnh nhằm phục vụ cho đời sống người dân. Với những nguyên liệu chính là đất sét và nhờ vào đôi bàn tay chế tác khéo léo của các nghệ nhân, các sản phẩm của làng gốm được mang nhiều hình dáng màu sắc và độ bền riêng biệt. Chính những người thợ gốm Thanh Hà đã làm nên và cung cấp gạch, ngói lợp, ngói lát nền cho các ngôi nhà cổ ở Hội An và các khu vực chung quanh.

 


Hiện nay, người dân làng gốm Thanh Hà đang làm đúng những công việc và theo đúng cách cha ông họ đã làm trong những thế kỷ trước. Trong đôi bàn tay khéo léo và điêu luyện của họ, những chiếc lọ hoa xinh xắn, những bình trà, bình rượu, những chiếc ấm, bồng binh, những chum, lu, hũ, vại và cả những con vật thân thương như trâu, Bò, mèo, lợn… cứ lần lượt ra đời.
Ngoài việc phát triển nghề dựa vào du lịch, những nghệ nhân làng gốm Thanh Hà vẫn muốn tìm hướng đi vững chắc cho sản phẩm của mình như sản xuất các sản phẩm gốm mỹ thuật tinh xảo dành cho xuất khẩu và phục vụ công tác trùng tu, xây dựng các công trình kiến trúc cổ tại Hội An. Ngày nay, những ngôi nhà cổ ở Hội An đang cần đến bàn tay khéo léo và khối óc thông minh, sáng tạo của những người thợ gốm Thanh Hà. Họ chính là đối tác duy nhất có thể cung cấp những viên gạch xây, những viên ngói lợp đúng tiêu chuẩn, hợp quy cách và chất lượng cao phục vụ công tác trùng tu, bảo tồn cả Hội An, Di sản Văn hóa Thế giới.

 

Lụa Vạn Phúc - Vang bóng một thời

Lụa Vạn Phúc nổi tiếng bao đời nay bởi vẻ đẹp và chất liệu đặc trưng giờ lâm cảnh “ngắc ngoải”, lụa chính thống bị bóp nghẹt bởi hàng trôi nổi khắp nơi tràn về trong đó chủ yếu là hàng Trung Quốc.

Hai chiếc áo dài được làm 100% từ chất liệu tơ tằm lụa Vạn Phúc trong Bộ sưu tập "Nghìn năm hội tụ'' được trưng bày trong Hoàng thành Thăng Long.

Bên cạnh đó, nguồn nguyên liệu tơ cũng không ổn định, giá cả bấp bênh khiến làng lụa Vạn Phúc lâm cảnh đìu hiu. Hơn 30% người lao động gắn bó với làng nghề phải rời xa nghề cha ông để lại để tìm cho mình cơ hội mới.

Theo ông Nguyễn Văn Sinh – Chủ tịch Hiệp hội làng nghề lụa Vạn Phúc, Hiệp hội được thành lập hơn 10 năm, đến nay có hơn 400 hội viên tham gia gồm các hộ kinh doanh, hợp tác xã (HTX), cơ sở sản xuất, doanh nghiệp.

Mặc dù những năm gần đây lượng khách du lịch vẫn nhiều, bình quân mỗi năm Vạn Phúc đón hơn 10.000 lượt khách đến tham quan, du lịch, mua sắm. Vạn Phúc đã có cả một con phố tơ lụa với số người tham gia kinh doanh ngày càng nhiều, tổng số gian hàng lên tới 150 gian. Tuy nhiên, một nghịch lý đã và đang từng ngày diễn ra ở đây là lượng lụa do người dân làng nghề sản xuất tiêu thụ ngày một chậm lại.

Mập mờ đánh lận, nguy cơ mất thương hiệu

Năm 2011, tổng các sản phẩm lụa trong làng được tiêu thụ khoảng 2 triệu mét, chỉ bằng 1/3 lượng tiêu thụ so với 3 năm trước. Lý giải điều này ông Sinh cho biết, tuy ở trung tâm Hà Nội như phố Hàng Gai, Hàng Trống nhiều đại lý lụa Vạn Phúc được mở ra thuận tiện rất nhiều cho việc mua sắm của khách đi tour nhưng với sự nổi tiếng của làng nghề, nhiều vị khách cầu kỳ sẵn sàng thuê taxi tốn hàng trăm nghìn, lặn lội vào làng để tìm mua tận gốc, đôi khi chỉ là chiếc khăn hay cái ví. Họ vào để được tận mắt chiêm ngưỡng quy trình dệt ra những vuông lụa đẹp và để mua được tận gốc sản phẩm.

Người sành nhất về lụa của Thái Lan đến thăm gian hàng lụa Vạn Phúc tham dự triễn lãm di sản lụa Asean tại Thái Lan

Nhưng những năm gần đây, Vạn Phúc ngập tràn hàng trôi nổi từ khắp nơi đổ về, trong đó đặc biệt hàng Trung Quốc chiếm đa phần. Với đặc điểm màu sắc bắt mắt, giá thành rẻ hơn cộng với sự nhá nhem “đồng thau lẫn lộn” trong cách bán hàng nên hàng Trung Quốc thường được người bán ưu tiên mời chào, người mua ưu tiên chọn lựa và nghiễm nhiên được tiêu thụ mạnh hơn nhiều so với hàng chính thống. Thương hiệu lụa Vạn Phúc vì thế mà đang bị đe dọa nghiêm trọng.

Thực ra trong quá trình mua bán, có những người vì tham rẻ nên lụa trôi nổi có “đất sống”, cũng có những người muốn tìm mua những vuông lụa thực sự nhưng giữa muôn vàn màu sắc sặc sỡ, độ nặng nhẹ, dày mỏng mà không thể phân biệt được hàng chính thống hay hàng trôi nổi.

Theo ông Sinh, để phân biệt được giữa sản phẩm chính thống và sản phẩm trôi nổi không đơn giản vì cùng một loại tơ, máy dệt tương tự nhau, hàng nhái được sản xuất rất tinh vi, ngay cả người trong nghề cũng khó lòng nhận ra; cái khác ở đây chủ yếu là họa tiết hoa văn, người thợ chuyên nghiệp thường nhìn vào họa tiết hoa văn và phải có kính để soi mật độ phân sợi.

Hiện nay lụa Vạn Phúc thông thường chia làm hai loại chính, loại cao cấp là sa tanh được làm từ 100% sợi tơ nguyên chất, có thể chập đôi, hoặc chập ba rồi se lấy sợi để dệt. Hoặc loại được pha với tỉ lệ 30%, 50%, 70% giữa tơ tự nhiên với sợi tổng hợp như cotton hay tơ nhân tạo (được làm từ sợi visco, polyester). Cách đơn giản để khách hàng có thể phân biệt được sản phẩm trước tiên là cảm giác khi cầm hai tấm lụa. Lụa Hà Đông khi cầm sẽ có cảm giác nhẹ hơn vì chất liệu tơ tằm bao giờ cũng nhẹ hơn chất liệu lụa khác. Tiếp đến khách hàng có thể thử bằng cách đốt sợi lụa, nếu lụa 100% nguyên chất khi cháy sẽ có mùi khét như khi tóc mình cháy. Lụa pha sợi tổng hợp như cottong thì cháy không có mùi khét. Nhựa pha sợi visco bao giờ cũng để lại tàn cứng khi cháy.

Khách du lịch nước ngoài tham quan làng lụa Vạn Phúc

Trước sự nhập nhèm, gây lẫn lộn  giữa hàng trôi nổi với hàng chính thống Hiệp hội đã có hướng vận động người làng Vạn Phúc dệt thương hiệu, địa chỉ sản xuất vào biên lụa. Tuy nhiên, theo ông Sinh có một điểm bất cập là hiện nay đa phần người sản xuất ra vải chỉ làm hàng mộc thôi, các hộ kinh doanh lấy hàng đó đi chuội nhuộm làm ảnh hưởng đến chất lượng của lụa khiến nhiều hộ sợ ảnh hưởng đến thương hiệu nên không mặn mà với việc này, chỉ có hộ nào sản xuất từ đầu đến cuối đi giao cho các cửa hàng mới in tên thương hiệu vào đó. Mặt khác thương hiệu chỉ được biết đến khi người ta mua vải về may, với sản phẩm bán sẵn như khăn, ví, quần áo, tên thương hiệu thường không nhìn thấy được nên đây chỉ được coi một giải pháp tạm thời.

Để xác định thương hiệu du lịch Vạn Phúc là du lịch làng nghề, trước sự cạnh tranh khốc liệt của hàng trôi nổi, ông Sinh cho biết: chỉ có biện pháp tuyên truyền vận động các hộ kinh doanh trung thực, có thông tin rõ ràng cho khách hàng, giới thiệu kỹ đâu là sản phẩm chính thống đâu là mặt hàng của nơi khác, có như vậy thương hiệu làng nghề mới được đảm bảo.

Nguyên liệu biến động

Hiện nay, nước ta vẫn có nhiều vùng trồng dâu nuôi tằm như ở Hà Nội, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Ninh Bình…tuy nhiên nguồn cung cho ngành lụa luôn không ổn định, chất lượng sản phẩm không đồng đều, có thời điểm giống kén không đảm bảo, cho ra tơ chất lượng xấu, sản lượng kém. Giá nguyên liệu những năm gần đây nhiều biến động càng gây sức ép lớn với sản phẩm lụa Vạn Phúc.

Tùy theo chất lượng, mẫu mã mà lụa Hà Đông được bán với nhiều mức giá khác nhau: Loại lụa sa tanh 100% tơ tằm, độ phân sợi dày 80 sợi/cm, dày và bóng có giá dao động từ 250.000 – 280.000 đồng/m, loại  mỏng hơn một chút  nhưng vẫn là 100% tơ tằm, lụa có giá khoảng 170.000 – 200.000 đồng/m. Loại lụa pha 50 – 70% sợi cotton, tổng hợp, độ phân sợi là 40 sợi/cm có giá từ 80.000 – 100.000 đồng.

Chị Phạm Mai Hương – cơ sở lụa Triệu Duy Khánh, người kế nghiệp của dòng họ có 5 đời làm lụa cho biết, trong làng mỗi nhà dệt chuyên một vài loại hoa văn và họ thường lấy hàng trao đổi lẫn nhau. Thông thường hoa văn trên lụa Vạn Phúc thường là các loại hoa cúc cũ, cúc mới, hoa nhỏ, triện thọ, hồng thọ, tre trúc, song hỷ đèn lồng…, mẫu trúc mai bây giờ ít người dệt vì rất khó bán. Mỗi mẫu hoa, người ta sử dụng một mẫu bìa cotton đục lỗ riêng, số lỗ trên bìa nhiều hay ít tùy theo độ cầu kỳ của hoa. Cơ sở của chị chủ yếu sản xuất các loại lụa in hoa một màu. Nét độc đáo ở đây là lụa Vạn Phúc có hai mặt, tùy theo sở thích khách hàng có thể may theo mặt vân dọc, hoa chìm hay vân ngang, hoa nổi  của tấm lụa. Các cơ sở sản xuất giờ thường dệt tơ đơn nghĩa là để nguyên sợi tơ và tơ đôi được se từ hai sợ tơ.

Chị Hương chia sẻ, kinh doanh giờ khó khăn lắm, nhiều người thích hàng rẻ nên toàn chọn mua lụa Trung Quốc, lụa Vạn Phúc bán chậm lắm. Thỉnh thoảng gặp một vài khách đặt hàng chất lượng cao nhưng số lượng ít, hoa văn cầu kỳ, thường là loại tơ 3, tơ 4, hàm lượng lao động thủ công nhiều, một ngày chỉ có thể dệt khoảng 2 – 3m, trong khi đó cùng thời gian lụa thông thường có thể dệt được 8 – 9m. Mỗi mét lụa phải tốn đến 1,5 lạng tơ mà giá tơ tốt lại cao và biến động, khi ra thành phẩm rất đắt nên nhiều khi nhận xong vừa làm vừa lo lỗ vốn.

Xưởng dệt lụa truyền thống của làng lụa Vạn Phúc.

Bao giờ cho đến ngày xưa?

Hồi tưởng lại thời kỳ hoàng kim của lụa Vạn Phúc, ông Sinh chia sẻ “Đó là quãng thời gian khoảng năm 2005 – 2006. Lúc đó tuyến phố lụa chỉ có vài hộ kinh doanh và chỉ có HTX là có gian hàng; còn một vài hộ gia đình, sản phẩm làm ra giao buôn ở một hai cửa hàng trên phố hàng Gai (Hà Nội), ở Sài Gòn lụa Vạn Phúc chỉ có duy nhất trên phố Đồng Khởi, ít điểm bán nhưng toàn là hàng thật chứ không bày bán tràn lan, nhập nhoạng như bây giờ. Cao điểm nhất tổng số lụa trong làng xuất bán lên đến 12 triệu mét, bán chạy hàng gấp 5 – 6 lần bây giờ, rồi lại trầm đi một vài năm đến lúc lại phát triển mạnh, chứ như hiện tại thì chẳng có gì là khởi sắc.

Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế, mọi chi phí cá nhân bị cắt giảm, hoạt động giao thương ở làng Vạn Phúc không tránh khỏi sự trầm lắng. Nay sức sản xuất trong làng giảm sút, chỉ bằng 30% sản lượng của những năm trước. 40% máy móc rơi vào tình trạng chờ việc, không hoạt động thường xuyên. Một vài hộ kinh doanh ế ẩm, không mấy mặn mà với nghề truyền thống đã chuyển sang làm nghề khác để kiếm kế sinh nhai; một số hộ con cái đến tuổi “dựng vợ gả chồng”, đất đai bị thu hẹp không đủ diện tích sản xuất nên cũng ngậm ngùi bỏ nghề; có hộ cha mẹ có tuổi không thể làm nghề, con cái lớn thì học hành, có bằng cấp nên theo nghề khác….

Lại nói về chuyện mẫu hoa văn, ở Vạn Phúc đang xảy ra tình trạng  rất bất cập, có những hộ nghĩ ra mẫu hoa văn rất đẹp nhưng do điều kiện kinh tế khó khăn, không có khả năng sản xuất quy mô lớn nên để xảy ra tình trạng, mẫu của mình vừa làm ra đã bị nhà khác “ăn cắp” sản xuất với số lượng lớn.

Về tình trạng đăng ký bản quyền ông Sinh nói: “Ở đây kinh doanh còn khó khăn nên chẳng ai nghĩ đến việc đăng ký bản quyền mẫu mã, các doanh nghiệp lớn mới có tiền làm việc đó chứ người dân lấy đâu ra, hơn nữa đó chỉ là hàng chợ đưa ra biết có bán chạy hay không chưa gì đã mất khoản “tiền bộn”, không mấy ai dám mạo hiểm”.

Ông Sinh cho biết thêm: Vạn Phúc giờ chỉ còn 2 cụ được phong nghệ nhân, một cụ ngoài 80 tuổi đã lẫn, cụ Nguyễn Hữu Chỉnh thì đã ngoài 70. Nguy cơ mai một nghề là có thật.

Cách đây một thế kỷ, nghề dệt lụa cũng đã từng lâm cảnh lao đao, cha ông đã từng bày tỏ nỗi niềm : “Ngậm ngùi lụa ế, tơ cao/rủ nhau đi gánh bùn ao đổ đồng”, giờ bối cảnh này lại một lần nữa bủa vây con người làng lụa Vạn Phúc. Đấy là xưa kia khi ruộng nhiều, những lúc cơ hàn người dân làng lụa còn có cách kiếm sống bằng việc đi gánh bùn thuê cho nông dân. Giờ đây, hầu hết ruộng đất đã nhường chỗ cho đô thị, nhà máy; nghề nông đâu còn chỗ cho người Vạn Phúc.

Bao giờ cho đến ngày xưa, câu hỏi đó dành cho chính người dân làng Vạn Phúc, liệu tâm huyết, nghị lực, sự tìm tòi có đủ để người Vạn Phúc vực dậy làng nghề để lụa Vạn Phúc lại kiêu hãnh trở về?         

 

Không phát triển được, nhiều làng nghề nên tập trung làm du lịch

(Mytour.vn) - Hiện nay có khá nhiều các làng nghề tại Việt Nam đang cố gắng giữ gìn bản sắc làng nghề của quê hương nhưng nó đã không còn phù hợp với thị trường hiện nay nên đã không thể thắng được trong các thị trường khác. Nên hãy tìm những kỷ vật của làng nghề để làm du lịch cho các tour phục vụ làng nghề.

Làng nghề nào không trụ được với cơ chế thị trường mà chỉ là danh tiếng trong lịch sử, trong ký ức thì chỉ nên giới hạn trong việc sưu tập hiện vật phục vụ cho công tác bảo tồn bảo tàng, phục vụ các tour du lịch làng nghề. Đó là vấn đề đặt ra sau Festival Nghề truyền thống Huế năm 2013. 

 


Đó là vấn đề đặt ra sau Festival Nghề truyền thống Huế năm 2013.

Nhiều chuyên gia cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, mỗi một địa phương cần xác định cho được nghề gì là đặc trưng, là thế mạnh, là lợi thế so sánh để có định hướng đúng trong bảo tồn và phát triển, không thể bảo tồn phát triển tràn lan. 
Có những làng nghề du lịch chỉ mở ra những cơ hội để bảo tồn chứ không để phát triển thành kinh tế hàng hoá, vì không đủ sức cạnh tranh với sản phẩm của các làng nghề khác cùng chủng loại, nhưng có đẳng cấp cao hơn.

 


Cần xác định rõ du lịch làng nghề là một sản phẩm vì lợi ích của cả cộng đồng. Người dân vùng cầu ngói Thanh Toàn ở thị xã Hương Thủy (TT-Huế) không ai no đủ với nghề làm nông cụ phục vụ du lịch, nhưng với phiên Chợ quê ngày hội, những mặt hàng nông cụ do chính người dân sở tại chế tác đã trở thành một sản phẩm đặc thù, góp phần hình thành thương hiệu du lịch Chợ quê.

Tương tự, lò gốm cổ Phước Tích, ở huyện Phong Điền (TT-Huế) được phục hồi đã góp phần quan trọng tạo dựng thương hiệu tour Hương xưa làng cổ, chứ không thể làm giàu cho cả làng với sản phẩm gốm của vài chàng thợ trẻ cơm đùm gạo bới ra học nghề ở Bát Tràng trở về.
Bởi chính gốm Bát Tràng nhiều lúc cũng phải chao đảo trước sự trỗi dậy của gốm Chu Đậu, trước sự bành trướng của dòng gốm rực rỡ đến từ Cảnh Đức Trấn bên Trung Quốc.

Thực tế những năm qua, dù được đầu tư nhiều trăm triệu đồng để phục hồi nhưng lò gốm cổ Phước Tích cũng chỉ đỏ lửa được vài ngày trong dịp Huế tổ chức Festival. Vì thế, lò gốm cổ Phước Tích nên dừng lại ở nhiệm vụ bảo tồn bảo tàng và phục vụ lễ hội, du lịch, nhiều chuyên gia nhận định.

 


Lỏng lẻo giữa du lịch và làng nghề

Nhiều tour du lịch làng nghề đang giống như là một hiện tượng có tính tự phát. Giữa ngành du lịch và các làng nghề ở Huế ít thấy sự hợp tác tích cực trong chia sẻ trách nhiệm đầu tư và lợi nhuận. Riêng ngành du lịch thiên về khai thác nhiều hơn, đầu tư không đáng kể.

Điều này ở Trung Quốc, ở Thái Lan người ta làm rất bài bản. Nếu qua Vân Nam, một tỉnh nghèo của Trung Quốc, sẽ tận thấy các tour được kết hợp rất chặt chẽ giữa tham quan, ăn ở cho đến mua sắm.
Từ trên xe các hướng dẫn viên đã rất có ý thức trong việc tranh thủ thời gian để giới thiệu về các điểm đến, các phong tục, tập quán, sản phẩm hàng hoá của địa phương. Họ rất khéo léo trong việc kết nối các cơ sở dịch vụ vào lộ trình của mỗi ngày.

Tới Thái Lan, nếu từ Bangkok đi Pataya, và ngược lại, điểm đến của tour, du khách sẽ tham gia ngoài vườn Noong Nooc, trại nuôi cá sấu, trại nuôi rắn, có cửa hàng vàng bạc đá quý. Các điểm đến này đồng thời cũng là một trạm nghỉ đạt chuẩn, có phục vụ nước uống miễn phí, có các khu nhà vệ sinh sạch sẽ; nhân viên phục vụ rất niềm nở, chu đáo; khách đi theo tour khi mua hàng được giảm giá.

Ở Huế chưa có những làng nghề, những trung tâm giới thiệu sản phẩm, bán hàng lưu niệm đạt chuẩn như thế. Và cũng ít thấy những hãng lữ hành, những hướng dẫn viên có trách nhiệm với các đối tác như thế. Đó là do sự liên kết còn lỏng lẻo giữa ngành du lịch và các đối tác, trong đó có làng nghề.

 

Làng cổ Thổ Hà - Bắc Giang

(Mytour.vn) – Vốn dĩ đã đi lên cùng với tiếng là làng nghề truyền thống làm bánh đa nem, mì gạo, nghề gốm. Làng Thổ Hà khuất sau những tiếng xe cộ, phố xá nhộn nhịp. Nằm ở xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Được coi là mảnh đất “địa linh nhân kiệt," nổi tiếng trong cả nước với nghề làm gốm và quần thể kiến trúc cổ thuần Việt mang đậm dấu ấn của văn hóa đồng bằng Bắc Bộ.

Thổ Hà đang là một địa chỉ quen thuộc, hấp dẫn của khách du lịch trong và ngoài nước, của những người nghiên cứu về kiến trúc và mĩ thuật, của những nghệ sĩ và nghệ nhân về tìm cảm hứng. Chương trình tham quan của khách du lịch có thể là: ngắm cảnh trên bến dưới thuyền của dòng sông Cầu, thăm đình làng, chùa, cổng làng, văn chỉ, xem các cây đa cổ thụ, thăm một số nhà cổ trong làng, xem những ngõ xóm hun hút đẹp với vẻ cổ kính, thăm lò sản xuất gốm, thăm các gia đình sản xuất bánh đa nem và mỳ gạo bằng máy và thủ công, thăm các gia đình nấu rượu gạo. Khi về du khách nên mua vài trăm bánh đa nem, vài cân mỳ gạo, vài lít rượu gạo nếp để làm quà. Nếu du khách thích cảm giác mạnh hãy đến thăm Thổ Hà khi nước sông Cầu ở mức báo động số 3.

 


Trẻ thơ đang ngơ ngác bên làng cổ


Khi du khách đến thăm Thổ Hà có thể đồng thời đến thăm hai địa điểm du lịch nổi tiếng nữa của đất Kinh Bắc, đó là Chùa Bổ Đà và Đền Bà Chúa Kho. Các địa điểm này chỉ cách nhau từ 3 đến 5 km.
Đường đi tới làng: từ Hà Nội theo quốc lộ 1 về hướng Bắc 31 km tới thành phố Bắc Ninh, rẽ trái đi 3 km tới phố Đặng, ngược theo đê sông Cầu 1 km thì tới bến đò Thổ Hà, sang đò là tới làng.

Thổ Hà - Làng nghề vang bóng một thời

 


Chỉ vài phút đi đò là sẽ tới làng


Nghề gốm

Nghề gốm Thổ Hà có từ thế kỉ 12 và là một trong ba trung tâm gốm sứ cổ xưa nhất của người Việt, bên cạnh Phù Lãng và Bát Tràng. Theo gia phả làng nghề và những mẫu hiện vật khảo cổ được tìm thấy thì Thổ Hà là một trong những chiếc nôi của nghề gốm sứ. Thổ Hà đã là một thương cảng gốm tấp nập của vùng Kinh Bắc. Sự hưng thịnh của nghề gốm đã giúp người dân xây dựng một quần thể kiến trúc đình, chùa, văn chỉ, cổng làng, điếm bề thế uy nghi.

Trong làng còn lưu truyền câu chuyện ông tổ nghề gốm làng Thổ Hà là tiến sĩ Đào Trí Tiến. Vào cuối thời Lý (1009 - 1225) ba ông Đào Trí Tiến, Hứa Vĩnh Cảo và Lưu Phong Tú cùng làm quan trong triều và được cử đi sứ Bắc Tống (960 - 1127). Sau khi hoàn tất sứ mệnh, trên đường trở về nước qua Thiều Châu, tỉnh Quảng Đông gặp bão, phải nghỉ lại. Ở đây có lò gốm nổi tiếng, ba ông đến thăm và học được kỹ thuật làm gốm. Về nước Đào Trí Tiến truyền nghề làm hàng gốm sắc đỏ thẫm cho Thổ Hà, Hứa Vĩnh Cảo truyền nghề làm hàng gốm sắc trắng cho Bát Tràng, Lưu Phong Tú truyền nghề làm hàng gốm sắc vàng thẫm cho Phù Lãng. Trước đây lễ dâng hương Tổ nghề gốm (suy tôn cả ba ông) hàng năm được các nhà làm nghề gốm ở Thổ Hà tổ chức luân phiên nhau tại gia đình.

Nghề làm bánh đa nem

Từ bột gạo ngoài sản phẩm chính là bánh đa nem người dân còn sản xuất mỳ gạo và bánh đa to rắc vừng. Mỳ gạo Thổ Hà bó thành bó to 1 kilogam cũng rất nổi tiếng, mỳ nấu dai mà không nát, nghề làm mỳ gạo có trước nghề làm bánh đa nem hiện nay. Bánh đa vừng Thổ Hà còn ngon hơn bánh đa Kế. Mỗi gia đình làm bánh đa nem và mỳ thường chăn nuôi khoảng chục con lợn, mỗi con lợn nặng trên một tạ mới bán, đó là nguồn thu nhập rất lớn. Nhờ nghề làm bánh đa nem dân làng có một cuộc sống xán lạn hơn xưa, phần lớn các gia đình đều có xe máy, tủ lạnh, ti vi, máy giặt, sinh hoạt không khác thành phố là mấy.

Trước đây người làm bánh đa nem phải hì hục quạt lò để tráng bánh bằng phương pháp thủ công, nhưng từ khi có điện, với kỹ thuật tráng bánh mới theo dây chuyền cho năng suất cao đã giảm bớt sự vất vả của con người, năng suất tăng lên gấp ba đến bốn lần. Một gia đình một ngày làm được 250 kg mỳ gạo. Vào những dịp gần tết, bánh đa nem của Thổ Hà làm ra không đủ đáp ứng cho nhu cầu của thị trường. Thời gian bánh bán chạy nhất bắt đầu từ tháng 9 cho đến hết tháng 2 năm sau. Bánh đa nem Thổ Hà mang hương vị thơm man mát, màu trắng ngần vừa thơm, lại vừa dai nên không những có uy tín với khách hàng trong nước mà nhiều chủ đại lý đã đến ký hợp đồng để xuất khẩu sang các nước Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản và rất được những thị trường này ưa chuộng. Tuy nhiên, các hộ dân sản xuất bánh đa nem vẫn còn ở mức nhỏ lẻ, chưa có thương hiệu, bánh đa nem Thổ Hà chưa vào được các siêu thị ở những thành phố lớn.

Ngoài nghề làm bánh đa nem, hiện nay một số gia đình vẫn còn làm nghề nấu rượu, nhưng sản xuất rượu gạo nếp rất ngon và bán với giá cao.

 


Công việc hàng ngày của người dân ngoài lúc làm nghề


Thổ Hà - Quần thể kiến trúc cổ thuần Việt

Thổ Hà còn nổi tiếng với những kiến trúc cổ từ nhà cửa đến cổng làng, khu giếng cổ đều được làm bằng gạch nung và sành đắp nổi không tráng men. Đặc biệt nơi đây còn hiện hữu ngôi chùa cổ kính và ngôi đình bề thế - một kiệt tác của kiến trúc cổ truyền Việt Nam.

 


Chút nắng vàng yếu ớt của ngày tàn


Cổng nằm ở ngay đầu làng phía trước đình, bên tả là hồ nước rộng, bên hữu có cây đa hàng trăm năm tuổi mang đậm dấu ấn văn hóa của cư dân đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài ra trong làng vẫn còn lưu giữ được một số ngôi nhà cổ xây dựng cách đây trên 100 năm, tiêu biểu cho các ngôi nhà cổ thuộc đồng bằng Bắc Bộ.

 


Con ngõ nhỏ hẹp cùng với bà cụ đang ngồi hóng mát


Đình Thổ Hà là một ngôi đình nổi tiếng của xứ Kinh Bắc, là bông hoa của nghệ thuật chạm khắc Việt Nam và được xếp hạng là di tích Kiến trúc, Nghệ thuật cấp Quốc gia. Đình được xây dựng vào năm 1692, thời vua Lê Hy Tông và là một công trình kiến trúc quy mô với nghệ thuật điêu khắc độc đáo từng được Viện bảo tàng Viễn Đông Bác Cổ xếp hạng. Ðình thờ thành hoàng làng là Lão Tử và tổ sư nghề gốm Ðào Trí Tiến. Đây là ngôi đình cổ thứ hai ở Bắc Giang (sau đình Lỗ Hạnh được xây dựng năm 1576). Đình Thổ Hà tiêu biểu cho không gian tâm linh, văn hóa của người Việt với nét kiến trúc đặc trưng, các mảng chạm khắc thể hiện đề tài “tứ linh, tứ quý” hoa lá cách điệu, chim thú và con người. Hiện đình còn lưu giữ được chín tấm bia cổ chứa nhiều giá trị nghiên cứu văn hóa, lịch sử.

 


Những đứa trẻ thơ đang nô đùa bên cổng làng cổ


Chùa Thổ Hà có tên là “Đoan Minh Tự” là một di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Chùa xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc, có quy mô lớn, bao gồm cổng tam quan, gác chuông và tiền đường. Tam quan chùa nằm sát sau đình. Gác chuông và tiền đường được chạm trổ lộng lẫy với các đề tài rồng mây, hoa lá… Trong chùa có tượng Phật tổ Như Lai to lớn và tượng Phật bà Quan Âm ngồi trên tòa sen. Từ tòa Tam Bảo theo hai dãy hành lang vào tới Động Tiên, là một công trình kiến trúc hiếm có. Động tiên đã ghi lại đầy đủ hình ảnh Thích Ca từ lúc mới sinh ra, lúc trưởng thành và khi lìa bỏ kinh thành vào động tu hành đến đắc đạo. Tiếp theo đi qua sân rộng tới nhà Tổ, nơi đây thờ Sư Tổ và các vị sư đã trụ trì tại chùa.  

 


Gồ gánh những gánh hàng


Văn chỉ làng Thổ Hà được xây dựng vào thế kỷ 17, thờ Khổng Tử, Tứ Phối và 72 vị tiên hiền… Nơi đây được coi là cái nôi của nền học thức Thổ Hà. Đây cũng là địa điểm thu hút khá đông du khách đến tham quan, nhất là vào mùa thi cử, các sĩ tử đến đây thắp hương, lễ bái với tấm lòng thành kính mong được đỗ đạt hiển vinh. Văn chỉ làng Thổ Hà được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa ngày 28/2/1999.

 


Vẻ đẹp cổ kính, thuần Việt, sự hồn hậu, mến khách của người dân và lợi thế cách không xa trung tâm thủ đô, làng cổ Thổ Hà đã và đang tạo sức hấp dẫn lớn đối với du khách trong và ngoài nước, với những người nghiên cứu về kiến trúc và mỹ thuật, những nghệ sĩ và nghệ nhân đến tham quan và tìm cảm hứng.

 

4 nơi thú vị nhưng ít người tới ở Đà Nẵng

Thăm quan bảo tàng Chăm, leo lên đỉnh Ngũ Hành Sơn... là những điều mà nhiều du khách có thể thử bên cạnh tắm biển và ăn hải sản ở Đà Nẵng.

Từ lâu, Đã Nẵng đã không còn là điểm đến xa lạ với du khách trong nước và quốc tế. Ở thành phố biển xinh đẹp này có rất nhiều điều thú vị để khám phá, từ những bãi biển trong xanh, nền văn hóa đậm đà bản sắc, những kỳ quan khảo cổ học cho tới những món ăn mang đậm đặc trưng ẩm thực vùng miền hay những khu resort sang trọng. Song, có những điều mà không phải ai tới Đà Nẵng cũng từng trải qua.

 

Khám phá bảo tàng điêu khắc Chăm

 

 

danang-774479-1368259575_600x0.jpg

 

 

Bảo tàng trưng bày các tác phẩm điêu khắc của dân tộc Chăm, những người sinh sống tại miền Trung từ năm 192 tới năm 1835. Bảo tàng được xây dựng bởi người Pháp với nét kiến trúc mang đậm ảnh hưởng của văn hóa Chăm. Nghệ thuật điêu khắc và trang trí đều được thể hiện rõ trong các ngôi đền hay tòa tháp ở khắp khu vực miền trung và những công trình này đều ra đời trong khoảng từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 17. Bảo tàng có khoảng 300 tác phẩm điêu khắc khác nhau được trưng bày phía trong và ngoài tòa nhà chính. Giá vé vào thăm bảo tàng là 30.000 đồng.

 

Thăm nhà thờ Lớn Đà Nẵng (Nhà thờ Con Gà)

 

 

danang5-264715-1368259575_600x0.jpg

 

 

Nằm trên đường Trần Phú, trung tâm của thành phố Đà Nẵng, nhà thờ Lớn được xây dựng từ năm 1923 để phục vụ cho những tín đồ công giáo người Pháp cư trú tại Việt Nam khoảng thời gian đó. Người dân địa phương vẫn quen gọi nhà thờ Lớn với tên nhà thờ Con Gà vì trên nóc nhà thờ có biểu tượng con gà màu xám làm bằng hợp kim nhẹ rỗng. Với lối kiến trúc theo kiểu Gothic, đặc trưng là những đường nét cao vút và những vòng cửa quả trám, nhà thờ Lớn Đà Nẵng là một địa điểm thú vị để du khách thăm quan, chụp ảnh.

 

Đi lễ chùa Pháp Lâm

 

 

 

Nét thiết kế nổi bật nhất, đại diện cho văn hóa và lịch sử Đà Nẵng nằm ở kiến trúc các tòa nhà, đặc biệt là những ngôi chùa ở đây. Trong đó, chùa Pháp Lâm lớn nhất thành phố Đà Nẵng là địa điểm bạn nên đến để cảm nhận kiến trúc độc đáo và cầu mong những điểu tốt đẹp cho gia đình, người thân. Ngôi chùa mang lối kiến trúc hoàn toàn Á đông do kiến trúc sư nổi tiếng Đặng Cao Đệ vẽ kiểu. Chánh điện được bố trí trang nghiêm. Tượng Đức Bổn Sư ngồi cao 1,10 m và hai tượng Bồ Tát Quan Thế Âm, Đại Thế Chí được đúc bằng đồng. Chùa mở cửa đón tiếp du khách từ 5h đến 11h30 và từ 13h đến 21h30.

 

Leo núi Ngũ Hành Sơn

 

 

danang2-408075-1368259575_600x0.jpg

 

 

Ngũ Hành Sơn bao gồm 5 ngọn núi nằm ở phía tây nam của Đà Nẵng trên đường đi Hội An. Vua Minh Mạng đã đặt tên mỗi ngọn núi tượng trưng cho các yếu tố trong vũ trụ là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Sâu trong những ngọn núi này đều có các ngôi đền, thậm chí cả chùa được chạm khắc công phu. Tuy nhiên, núi Thủy Sơn (hay còn gọi là núi Tam Thai) là ngọn núi lớn, cao và đẹp nhất nên thường được nhiều người leo lên đỉnh nhất. Đến đây, bạn có thể khám phá những hang động, những ngôi đền, đường hầm hay đơn giản chỉ đứng trên đỉnh núi để phóng tầm mắt ra xa và cảm nhận vẻ đẹp của thành phố Đà Nẵng.

Theo: Ngôi Sao