Thứ Sáu, 9 tháng 5, 2014

HÀ NỘI BÌNH DỊ CỦA NGÀY XƯA

HÀ NỘI BÌNH DỊ CỦA NGÀY XƯA


Hà nội xưa với những con phố nhỏ với những chiếc xe đạp thong dong, những bước chân nhàn tản. Những con phố, ngõ nhỏ Hà Nội đã trở thành một phần ký ức của thủ đô, đi vào trong thơ, vào câu hát, để từng người dân Hà Nội, ai ai cũng đều ngâm nga những câu ca quen thuộc "Ngõ nhỏ phố nhỏ nhà tôi ở đó", như một phần ký ức tươi đẹp không thể quên... 

Những góc phố, những ngã tư Hà nội đã gắn liền với bao thăng trầm của thời gian. Ngày nay thật hiếm khi bắt gặp một con đường giữa thủ đô với hai bên chỉ là những hàng cây và vỉa hè rợp bóng xanh mát. Hà Nội như vậy phải chăng chỉ thuộc về quá khứ…

Những khu phố cổ dù đã bao dầu dãi thời gian nhưng ở đó ta có thể bắt gặp điều gì đó vừa quen vừa lạ nơi những căn nhà được xây dựng cách đây hàng thế kỷ. Dẫu đã nhiều thay đổi nhưng những ký ức xưa, câu chuyện xưa vẫn thoảng như đâu đó trên những mái ngói rêu phong.. 

Hà Nội với những cửa ô thân thuộc, nay chìm khuất vào thời gian người ta chỉ còn đôi khi nhắc đến mấy cái tên quen thuộc: ô Cầu Dền ở phía Nam, ô Đống Mác gần đấy, ô Quan Chưởng phía Đông, ô Yên Phụ phía Bắc, ô Chợ Dừa phía Tây Nam, ô Cầu Giấy phía Tây... Cửa Ô mỗi sớm mai  đón những suối rau xanh non lộc, tươi mát ngon lành, những thúng gạo trắng như bông, con gà chân vàng chói, cùng hoa tươi và muôn ngàn sản vật hào phóng tràn qua cửa ô vào thành phố... Tất cả điều đó làm nên một Hà Nội hào hoa văn vật ngàn năm, để cho kẻ tha hương dẫu rời xa Hà Nội nhưng tâm hồn luôn ở lại.

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 1
Hồ gươm trong buổi sớm mai...

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 2
... thật thanh bình

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 3
... cổ kính


Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 4

Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục (Đoạn đầu Đinh Tiên Hoàng, trước đây là ga đầu điện)


Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 5
Phố Lý Thái Tổ (đoạn ngã tư Trần Nguyên Hãn - cạnh cung thiếu nhi)

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 6

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 7


Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 8

Nhà Hát Lớn



Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 9

Trước Lăng Bác 


Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 10

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 11
Ngã tư Tràng Tiền - Ngô Quyền

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 12
Ngõ Gạch (phía  hàng Ngang)

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 13
Các cụ đánh cờ tại Đền Ngọc Sơn

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 14

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 15
Cổng đền Ngọc Sơn

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 16
Ngã 5 Cửa nam (Đầu đường Điện Biên Phủ và Nguyễn Thái Học)

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 17

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 18

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 19

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 20
Cổng Phủ Chủ Tịch


Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 21

Phố Hàng Bông đoạn vườn hoa Cửa Nam


Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 22

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 23

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 24
Đường Hoàng Diệu

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 25
Phố Hàng Vải đoạn ngã tư Hàng Gà

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 26
Phố Quán Thánh

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 27

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 28
Phố Đinh Tiên Hoàng đoạn đầu Lò Sũ

Ảnh độc: Phố Hà Nội bình dị của ngày xưa 29

Thứ Tư, 7 tháng 5, 2014

NHỮNG MÙA HOA ĐẸP CỦA NÚI RỪNG MIỀN BẮC

NHỮNG MÙA HOA ĐẸP CỦA NÚI RỪNG MIỀN BẮC


Có lẽ chúng ta đều đã từng nghe nói về vẻ đẹp hoang sơ của núi rừng miền Bắc và mong muốn một lần đặt chân qua các nẻo đường hoa của chốn núi rừng. Hãy theo chân chúng tôi và khám phá vẻ đẹp của những cánh đồng hay thung lũng hoa ở đây các bạn nhé!

Hoa cải - Cuối đông đầu xuân

Bên cánh đồng hoa cải vàng

Vào thời điểm cuối đông đầu xuân, vùng Cao nguyên đá Đồng Văn bung nở hoa cải. Một màu vàng rực lên trong nắng mới nổi bật giữa màu xám của đá, màu xanh của cây cỏ. Nhìn từ xa cả một sườn núi, cả một thung lũng rực lên màu hoa cải ẩn hiện giữa làn sương sớm bảng lảng, giữa cái rét tê tê mà lòng nao nao một cảm xúc thật khó tả. 

Cả thung lũng tràn ngập hoa cải vàng

Có nhiều người khi lên Đồng Văn rồi khi về cứ như vương vấn nhớ một điều gì đó, cảnh vật nơi đây thật khác lạ, con người nơi đây thật thân tình, đầm ấm. Có người may mắn được ăn được ăn bữa dưa cay của đồng bào khi về còn nhắc mãi, coi đó là một trong những kỷ niệm suốt đời cũng không quên được! 

Cánh đồng hoa nằm giữa thung lũng

Hoa cải ở Phố Cáo được người dân trồng làm rau ăn phục vụ cho cuộc sống hàng ngày. Khi cây cải già hơn một chút thì đem muối làm dưa, khi già hơn nữa thì làm thức ăn cho lợn, một số thì để làm giống lấy hạt cho vụ sau. Hoa cải được trồng rất đơn giản chỉ thả hạt cải xuống đất là xong, không cần tưới tắm hay chăm bón gì.

Cánh đồng hoa cải vàng rực vào cuối đông đầu xuân

Trên Cao nguyên đá Đồng Văn đẹp nhất là mùa hoa tam giác mạch, tiếp theo sau đó là mùa hoa cải. Từng cánh hoa vàng óng trải thảm trên vùng đá xám lung linh, rực rỡ, thơ mộng, duyên dáng. Hoa cải trên Cao nguyên đá được nhiều người biết nhất là ở Sủng Là. Nằm giữa bốn bề là núi, thung lũng Sủng Là như đẹp hơn nhờ có nhà cổ, hoa tam giác mạch và hoa cải. Ít ai biết rằng ở cách đó không xa, ở Thài Phìn Tủng cũng có hoa tam giác mạch và hoa cải không kém gì với Sủng Là.

Vui đùa trên cánh đồng hoa cải vàng

Nằm ngay cạnh quốc lộ 4C từng vạt hoa cải cong cong theo con đường, kéo dài vào tận chân núi. Hoa cải nơi đây được trồng theo kiểu quảng canh, hạt gieo xuống rồi chờ đợi, cây lớn lên ra thu hoạch đem về không hề phải chăm chút hay bón gì cho nương cải. Cây cải lớn lên nhiều khi phải chen chân với cỏ để có chút ánh nắng cho xanh lá đơm hoa. Có nhiều đám nương cây cải phải sống chung với đậu hà lan, đậu răng ngựa. Bên cạnh màu vàng, màu trắng của hoa cải còn có thêm màu tím của đậu răng ngựa, đậu hà lan, màu của hoa cỏ cho thảm hoa thêm mầu sắc lung linh dưới nắng, óng vàng rực rỡ.

Dàn nhạc bù nhìn trên cánh đồng hoa cải vàng

Hai bên con đường dài nằm giữa khe núi vắt qua Thài Phìn Tủng từng đám hoa cải vàng rực dưới làn sương khói chiều buông. Nơi đỉnh núi mây trắng đã về đậu, đàn gà nháo nhác tìm chỗ ngủ, bầy trẻ nô đùa với trò chơi quay và đuổi bắt. Làng xóm êm đềm, khói bếp hòa vào mây, xa xa vài bóng người gùi hoa cải về nhà, họ chuẩn bị cái ăn cho đàn lợn vào buổi sáng hôm sau. Màu vàng từ nương về nhà mang theo sương gió, đất trời, đá núi vào cuộc sống người dân, bình dị, đơn sơ mà ấm áp nghĩa tình.
Hoa Bồ công anh - Cuối xuân hoặc cuối thu
"Sao lại kêu hoa dại?
Hoa nào là hoa khôn?
Sự khôn, dại lấy gì định giá?
Khi hoa kia biết làm đẹp tâm hồn"

Nếu hoa hướng dương luôn hướng về Mặt trời

Bồ công anh mọc hoang tại nhiều tỉnh miền Bắc ở Việt Nam. Dân đi phượt cung đường Tây Bắc kiểu gì cũng bắt gặp loài hoa này trên đường đi rất nhiều. Đây là loại cây rất dễ trồng bằng hạt, mùa trồng vào tháng 3 - 4 hoặc 9 - 10, cũng có thể trồng bằng mẩu gốc, sau 4 tháng là có thể thu hoạch được rồi đấy.

Bồ công anh thường được chọn trong trò chơi đếm cánh hoa tình yêu. Không chỉ thế, do hoa nở và tàn theo giờ, những người chăn cừu thường xem loại hoa dại này như một chiếc đồng hồ vậy. Lá của bồ công anh thường được hái về dùng làm thuốc. Ta có thể dùng tươi hay phơi hoặc sấy khô để dùng dần, không cần chế biến gì đặc biệt. Những bông hoa bồ công anh vàng rực, những chiếc lá dài, xanh thẫm với những chiếc răng cưa nhọn hoắt như những chiếc răng nanh của con sư tử. Ví thế người ta còn gọi cây hoa này là cây Răng Sư Tử.

Hoa bồ công anh còn được gọi là răng sư tử

Truyền thuyết về loài hoa này cũng khá ly kỳ!
“Xưa kia, Răng Sư Tử nằm đủng đỉnh bên trên đồng cỏ dại, ôm ấp những cánh hoa vàng như màu nắng của nó. Người chàng yêu chính là đoá hoa Bồ Công Anh nở rộ từ chính trong vòng tay ấm áp của chàng.

Răng Sư Tử trọn vẹn yêu Bồ Công Anh!

Bỗng một ngày, người con trai tên là Gió xuất hiện. Gió ập tới khiến Bồ Công Anh choáng ngợp trước vẻ phong lưu và bất cần của chàng. Nàng yêu Gió, trong sáng và trọn vẹn. Nhưng Gió là đứa con của Ngao Du và Mạo Hiểm nên cứ ào ạt thổi qua. Bồ Công Anh cố níu giữ, cố nắm bắt Gió bằng thân hình mảnh dẻ của mình, nàng vươn mình ra đi theo Gió.
Răng Sư Tử nhói lên trong lòng, tuyệt vọng giơ những cánh tay xanh biếc ra, giữ chặt lại Bồ Công Anh trắng muốt nhưng vô ích. Những cánh hoa Bồ Công Anh xinh đẹp và mềm mại đã tự tách khỏi nhuỵ hoa, để bay cùng chiều với Gió mất rồi.
Và ngày ngày, những người nông dân đi trên cánh đồng vẫn nghe tiếng Răng Sư Tử thì thầm cùng với chàng Gió từ miền xa thổi đến, hỏi những cánh Bồ Công Anh đã được Gió mang tới nơi đâu... ‘Ở nơi đó, cô ấy sống thế nào?’. Gió im lặng, Gió không thể mang Bồ Công Anh đi mãi. Cô gái ấy rơi xuống trên những cuộc hành trình, vùi mình vào trong đất, để rồi lại hồi sinh thành những đứa con và đặt tên chúng là Răng Sư Tử...


"Cội nguồn của Hoa chính là nhựa chảy trong máu của cây."
Cây có Hoa, nhưng không giữ được Hoa.
Hoa chỉ luôn vươn mình theo Gió.
Gió lại khó nắm bắt, lại chỉ biết yêu những cuộc hành trình.
Và khi cơn Gió qua rồi,
Hoa mới biết: Cội nguồn của mình là nhựa chảy trong máu của cây...”
Hoa đào - Cuối đông đầu xuân
Mọi người vẫn quen gọi đào Mộc Châu, Sa Pa là đào rừng để phân biệt với những loại đào được chăm chút cẩn thận trong những khu vườn dưới đồng bằng. Họ thích đào rừng bởi cái vẻ tự nhiên, hoang dã, cổ kính, không đài các sang trọng như đào thế. Gọi chung là đào rừng vậy thôi, tìm hiểu kỹ ra, đào Mộc Châu cũng có dăm ba loại: đào bích, đào mèo, đào Pháp, đào Mỹ, đào phai…, loại nào cũng có vẻ đẹp riêng.
Đào bích được đem từ vùng đào Nhật Tân (Hà Nội) lên thường nở trước Tết Nguyên đán 2 tháng. Loại đào này, được trồng ở Mộc Châu như cô gái cá tính mạnh mẽ được đặt giữa vùng đất phóng khoáng, tự do vẫy vùng. Cho nên, nó không theo một thế nào cả, mạnh cành nào cành ấy lớn, những bông hoa đài các nay bỗng có phần hoang dại: cánh vẫn nhiều, màu vẫn rực rỡ, nhưng nụ mập, hoa lớn hơn. Mà đã mạnh mẽ thì khi nở nó cũng phải nở bung ra không e ấp, những cánh hoa vươn hết cỡ, xong là rã rời, tàn tạ. Nhiều người không thích bích đào bởi thế, cho dù nó đã nở là cả cây chi chít hoa, rực rỡ hoa từ gốc đến ngọn, đọt mầm xanh chỉ điểm vào thấp thoáng tô cho màu đỏ thêm thắm, màu hồng thêm rạng ngời.

Đào Pháp, đào Mỹ mới được du nhập vào Mộc Châu vài năm gần đây để lấy quả là chính. Quả khác hẳn đào rừng, ruột vàng ươm, nhiều nước, ăn mềm, có loại quả nhẵn, không có lông, màu đỏ rực rỡ như quả mận và rất giòn. Giống này thường ra hoa sớm, trước tết độ một tháng, cũng nhiều hoa như bích đào, nhưng nhanh tàn và cánh nhạt hơn.

Hoa đào bên nếp nhà đơn sơ

Giờ xin được gọi đào phai, đào Mèo là đào rừng cho dễ phân biệt với các giống đào trên. Gọi là đào rừng bởi nó đích thực sinh ra, ăn gió, uống sương và lớn lên từ núi rừng Tây Bắc. Đào mơ, hay gọi là đào phai trước còn nhiều, giờ ở Mộc Châu cũng chỉ còn thấp thoáng, vì quả bé, ăn lại chát, không có giá trị kinh tế. Bởi gọi là đào phai nên cánh hoa chỉ phơn phớt hồng, nụ nhỏ, lại thon chứ không mập như đào bích. Đào Mèo là giống cây đặc trưng của người Mông, quả to, ăn giòn, hạt lúc nào cũng đỏ như son, loại này mấy năm nay có giá. Bởi những cây đào xù xì rêu mốc cứ giáp Tết Nguyên đán mới nở hoa. Cả 2 giống này, trên mỗi bông hoa chỉ vỏn vẻn 5 cánh mỏng manh, cánh nào cũng thon gọn, e ấp như thiếu nữ mới lớn. Cuống hoa, đài hoa có màu đỏ sậm, cái đỏ ấy lan dần ra, đến đầu cánh chỉ còn phớt hồng.

Khác với vẻ lộng lẫy của đào bích, đào phai đẹp thanh tao, ôn nhu hơn
Nhiều người thích đào rừng bởi vẻ đẹp tự nhiên, mong manh, hoang sơ đó.Màu hồng tưởng nhợt nhạt, năm cánh tưởng như mỏng manh ấy lại thể hiện sự hòa hợp của con người, thiên nhiên Tây Bắc. Thử vào những bản làng người Mông mà xem, những nếp nhà trệt ghép lại từ những tấm gỗ, chẳng cần phải sơn, đánh bóng, những khe hở có khi gió vẫn lùa xuyên qua, nền nhà nhiều khi không nhất thiết phải đổ bê tông. Người làm nên nếp nhà ấy thường giản dị, mộc mạc. Bây giờ, nếu đặt vào đầu hồi những ngôi nhà ấy một cây bích đào trong màn sương bảng lảng sẽ thấy không phù hợp chút nào. Ấy là một sự chắp ghép hơi sượng, nó không ăn khớp với nhau. Những cánh đào phớt hồng phải đặt cạnh ngôi nhà trệt giữa khói sương của núi rừng nó mới hòa quyện với nhau, tôn nhau lên, mới ra hồn tây bắc, như ăn bát phở phải có hạt tiêu mới đúng vị...


"Lạc hoa hữu ý - Lưu thủy vô tình"
[Hoa rơi hữu ý - Nước chảy vô tình]
Thời điểm nở của mỗi loại hoa đào
Vào giữa đông, Mộc Châu còn gây cho du khách một sự bất ngờ thú vị với hoa đào Pháp nở sớm. Hoa đào Pháp có màu nhạt và ít cánh so với giống đào rừng vốn nở vào mỗi dịp tết âm lịch ở Mộc Châu. Giống đào này chính là giống đào Pháp, hay đào chín sớm của Mộc Châu, chúng thường ra hoa sớm.

Hoa đào Pháp thường nở sớm, khoảng giữa đông

Giống đào mới này đã nhanh chóng hòa hợp với khí hậu và đất đai Mộc Châu, giờ nó trở thành một trong những nét lạ của vùng đất nhiều sương giăng mây phủ này. Tuy hoa đào nở sớm không có ở nhiều nơi nhưng những cánh hoa đào phớt hồng điểm xuyết trên những cánh đồng hoa cải trắng càng làm cho vẻ đẹp của cao nguyên Mộc Châu trở nên lung linh, độc đáo.
Đầu xuân, đào rừng, đào mèo bắt đầu nở hoa rực rỡ, những bản làng người Mông khu vực xã Lóng Luông đẹp như một thiên đường với sắc hồng quyến rũ. Bởi thế, Mộc Châu đã trở thành thiên đường chụp ảnh cho khách du lịch và biết bao lứa đôi từ Nam ra Bắc.


Dù là xứ nào, dù là loài hoa nào, mỗi mùa hoa đều biết cách tô điểm cho miền đất thêm phần duyên dáng theo cách riêng của nó!

Thứ Ba, 6 tháng 5, 2014

NGẤT NGÂY 4 MÙA Ở THIÊN ĐƯỜNG HOA HITACHI

NGẤT NGÂY 4 MÙA Ở THIÊN ĐƯỜNG HOA HITACHI


Công viên Hitachi nằm tại thành phố Hitachinaka (quận Ibaraki, Nhật Bản) là điểm đến nổi tiếng của nhiều tour du lịch từ khắp nơi trên thế giới. Nơi đây được mệnh danh là thiên đường hoa với những sắc hoa rực rỡ suốt 4 mùa. Chúng ta hãy cùng hòa mình vào thiên nhiên xinh đẹp nơi đây để trải nghiệm 4 mùa ở thiên đường hoa Hitachi nhé!


Với diện tích hơn 3,5ha, công viên Hitachi luôn đẹp rực rỡ bởi những cánh đồng hoa nở rộ quanh năm. Mỗi một ngọn đồi là mỗi loại hoa khác nhau, vào mỗi mùa chúng lại thay phiên nhau khoe sắc.


Dừng chân vào mùa xuân, bạn sẽ thấy công viên tràn ngập trong sắc vàng pha đỏ của hơn 1 triệu bông hoa thủy tiên vàng.


Những bông hoa tulip đầy màu sắc cũng đua nhau nở rộ khi mùa xuân đến.


Với hơn 170 giống tulip khác nhau, chúng trông như chiếc thảm đầy màu sắc và bắt mắt.




Hàng năm, công viên đều tổ chức lễ hội Hanami Nemophila - lễ hội ngắm hoa. Choáng ngợp trước sắc xanh của những đồi hoa Nemophila là cảm nhận của hầu hết các du khách khi đến đây vào mỗi dịp lễ hội. Cứ khoảng đầu tháng 4 đến tháng 5 hàng năm,mùa hạ sang, hàng triệu bông hoa Nemophila xinh xắn nở xanh cả các sườn đồi.
Cao chừng 25cm, Nemophila có hình dáng tuyệt đẹp, với những sắc hoa khác nhau từ xanh đến tím. Đứng giữa những đồi hoa xanh mướt, người ta có cảm giác như đang hòa mình giữa đại dương xanh mênh mông tựa như bầu trời đang sa dần xuống mặt đất.


Trong mùa hè này còn có thêm một loại hoa "bung sắc" nữa. Vào khoảng tháng 6, hơn 4.000 bông hoa thuộc 140 giống hồng khác nhau nở rực tại các khu vườn.


Đây là đồi cây bụi Kochia lúc còn xanh - một địa điểm không thể bỏ qua ở công viên Hitachi. Được biết đến với sức chịu đựng mãnh liệt, Kochia có thể chịu đựng hạn hán, thậm chí là đất mặn hay bị nghèo dinh dưỡng nhất. Tùy vào điều kiện sống chúng có thể cao đến 6 feet (khoảng 1,8m).


Vào mùa thu, khi Kochia trưởng thành, chúng chuyển dần sang màu đỏ. Hình ảnh Kochia về thu nhuộm đỏ cả không gian Hitachi.


Mọi du khách ghé thăm Hitachi cũng không quên ghi lại cho mình những tấm hình làm kỉ niệm.


Khoảng cuối tháng 9 và đầu tháng 10 là thời gian thích hợp nhất để ngắm hoa Cosmos. Sắc hoa Cosmos tràn ngập cả ngọn đồi Miharashi là lúc du khách cảm nhận được mùa thu dịu mát nơi đây. Cả ngọn đồi được bao phủ bởi Cosmos và Kochia.


“Tôi rất ngạc nhiên khi nhìn thấy hoa Tulip nở vào mùa này và ước gì tôi có thể đem nó về nhà” là cảm nghĩ của một du khách khi đến thăm Hitachi vào mùa đông. Ngàn đóa hoa tulip muôn màu sắc đã làm tan chảy không khí lạnh giá ở nơi đây. Bằng các biện pháp nhân tạo, những hạt giống hoa đã được bảo quản lạnh đến tháng 11 và được trồng ngoài môi trường tự nhiên sau đó nhằm phục vụ cho nhu cầu thưởng hoa vào dịp Giáng sinh.


Vòng quanh công viên Hitachi, bên cạnh những loài hoa đặc trưng cho từng mùa, công viên còn trồng khá nhiều các loại hoa khác nhau như hoa lily, bách nhật và nhiều loại hoa khác.




Vườn hoa chuông xanh được trồng bên cạnh những bông hoa tulip, thủy tiên. Cánh hoa có màu tím hòa với sắc xanh pha chút trắng tạo nên hiệu ứng tuyệt đẹp.

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

Tản Đà Resort - Vườn Quốc Gia Ba Vì

 

LỊCH TRÌNH

 

NGÀY 1: HÀ NỘI – TẢN ĐÀ RESORT (ĂN TRƯA, TỐI)

 

08h00: Xe và Hướng dẫn viên đón Quý khách tại điểm hẹn khởi hành đi Tản Đà Resort.

09h30: Tới Tản Đà resort, cổng chính vào khu sinh thái với tường bao được xây bằng loại đá ong vàng sậm thuần tuý của vùng núi Ba Vì chắc chắn sẽ tạo cho Quý khách những ấn tượng khác lạ.

Sau khi làm thủ tục nhận phòng, Hướng dẫn viên sẽ đưa Quý khách đi thăm quan khu du lịch sinh thái với những điểm đến như: khu nhà cổ, vườn sinh thái ….

11h00: Quý khách ăn trưa tại nhà hàng. Nghỉ ngơi.

Chiều: Quý khách tự do tham gia các trò chơi giải trí tại Câu lạc bộ Đá Ong như: cầu lông, tennis, phi tiêu, đi xe đạp đôi/đơn… hoặc ngâm mình trong những bồn tắm khoáng bùn hương liệu, xông hơi (20 phút theo tiêu chuẩn trị liệu) (chi phí tự túc).

Tối đến, liên hoan văn nghệ cây nhà lá vườn, khiêu vũ và tham gia các trò chơi tập thể.

 

 

 

 

 

 

NGÀY 2: TẢN ĐÀ RESORT - HÀ NỘI (ĂN SÁNG, TRƯA)

 

Quý khách dậy sớm chạy bộ hoặc đi dạo, tận hưởng không khí trong lành của khu du lịch, sau đó ăn sáng.

Tự do ngâm mình trong bể khoáng nóng, thưởng thức phong cảnh thiên nhiên hữu tình, hoặc cùng hướng dẫn viên khám phá cuộc sống của người dân vùng núi.

11h00: Ăn trưa tại khu du lịch.

12h30: Trả phòng khách sạn. Xe đón Quý khách trở về Hà Nội

Chia tay Quý khách. Kết thúc chương trình.

 

 

THÔNG TIN CHI TIẾT

 

 

TẢN ĐÀ RESORT - VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ

 

 

 

 

Với độ cao 1.296m, bạn thoải mái thu gọn những không gian đẹp nhất nơi núi Tản Viên ở trong tầm mắt...Không khí trong lành mà tươi mát khiến tâm hồn nhẹ nhõm...Thêm vào đó bạn có thể tận mắt chứng kiến các động thực vật độc đáo ở vườn quốc qia Ba Vì, ngay gần trước mặt...

 

GIÁ BAO GỒM:

Xe ô tô đời mới đưa đón theo chương trình.

Ngủ nhà sàn tập thể tại khu du lịch.

Ăn các bữa theo chương trình

Hướng dẫn viên nhiệt tình, nhiều kinh nghiệm.

Bảo hiểm du lịch.

 

GIÁ KHÔNG BAO GỒM:

Chi phí tắm khoáng nóng/ bùn, chơi thể thao, phòng hát karaoke, xe đạp…

Thuế VAT, đồ uống và các chi phí cá nhân ngoài chương trình.

 

GHI CHÚ:

Trẻ em dưới 05 tuổi: miễn phí.

Trẻ em từ 6- 10 tuổi: tính 50% giá tour.

Trẻ em từ 11 tuổi trở lên : tính 100% giá tour như người lớn.

Mức giá có thể thay đổi tùy theo từng thời điểm. Quý khách vui lòng liên hệ để có sự tư vấn tốt nhất.

Hà Nội sẽ lấy khu du lịch Ba Vì làm trọng điểm

(MYTOUR.VN) - VỚI THIÊN NHIÊN ĐẸP VỖN CÓ CỦA MÌNH, NHỮNG ĐỒI NÚI HẤP DẪN. TỚI ĐÂY BA VÌ SẼ TRỞ THÀNH VÙNG DU LỊCH TRỌNG ĐIỂM CỦA HÀ NỘI. BA VÌ SẼ PHÁT HUY TIỀM NĂNG VỐN CÓ CỦA MÌNH CÙNG VỚI SỰ ĐỒNG TÌNH VÀ ỦNG HỘ CỦA THÀNH PHỐ SẼ GIÚP NƠI ĐÂY TRỞ THÀNH ĐIỂM DU LỊCH TRỌNG ĐIỂM CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI.

Ba Vì là huyện thuộc vùng bán sơn địa, nằm về phía Tây Bắc thủ đô Hà Nội. Với tổng diện tích 424km2, dân số hơn 265 nghìn người (bao gồm 3 dân tộc Kinh, Mường, Dao), toàn huyện có 31 xã, thị trấn, trong đó có 7 xã miền núi, một xã giữa sông Hồng. Phía đông giáp thị xã Sơn Tây, phía nam giáp tỉnh Hòa Bình, phía tây giáp tỉnh Phú Thọ và phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc. Thực hiện Nghị quyết 15 của Quốc Hội khóa XII, Ba Vì tái nhập Thủ đô Hà Nội tháng 8 năm 2008.


Địa hình của huyện thấp dần từ phía Tây Nam sang phía Đông Bắc, chia thành 3 tiểu vùng khác nhau: Vùng núi, vùng đồi, vùng đồng bằng ven sông Hồng.

Về khí hậu, Ba Vì nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Các yếu tố khí tượng trung bình nhiều năm ở trạm khí tượng Ba Vì cho thấy:

Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 10 với nhiệt độ trung bình 230C, tháng 6 và tháng 7 có nhiệt độ trung bình cao nhất là 28,60c. Tổng lượng mưa là 1832,2mm (chiếm 90,87% lượng mưa cả năm). Lượng mưa các tháng đều vượt trên 100 mm với 104 ngày mưa và tháng mưa lớn nhất là tháng 8 (339,6mm).

Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 và kết thúc vào tháng 3 với nhiệt độ xấp xỉ 200C , tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất 15,80C; Lượng mưa các tháng biến động từ 15,0 đến 64,4mm và tháng mưa ít nhất là tháng 12 chỉ đạt 15mm.



Nhân dân Ba Vì vốn bình dị, thông minh, hiếu học, cần cù, sáng tạo trong lao động kiên cường, bất khuất trong chống giặc ngoại xâm nhất là trong hai cuộc kháng chống Thực dân Pháp và đế Quốc Mỹ xâm lược. Trong thời kỳ đổi mới Đảng bộ, nhân dân huyện Ba Vì tiếp tục phát huy truyền thống quê hương, phát triển mạnh mẽ và vững chắc góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp hiện đại hóa đất nước. Những thành tích mà Đảng bộ và nhân dân huyện Ba Vì đã được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Mỹ, Huân chương lao động hạng nhất thời kỳ đổi mới.

Tại lễ khai trương Du lịch Ba Vì 2013, do Ủy ban Nhân dân huyện Ba Vì, Hà Nội tổ chức ngày 25/4 ở Tản Đà Spa Resort, ông Lê Văn Minh, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện khẳng định năm 2013, huyện phấn đấu thu hút từ 2,2-2,3 triệu lượt khách, doanh thu về hoạt động kinh doanh du lịch đạt 200 tỷ đồng.

Năm 2015, huyện đặt mục tiêu thu hút từ 2,5 đến 2,6 triệu lượt khách, đạt doanh thu 230 tỷ đồng, du lịch dịch vụ chiếm 50% tỷ trọng cơ cấu kinh tế của huyện.

Ba Vì là vùng đất có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch sinh thái. Du khách đến đây sẽ được khám phá các danh lam, thắng cảnh như: Vườn quốc gia Ba Vì, Tản Đà Spa Resort, khu du lịch sinh thái Ao Vua, Đầm Long-Bằng Tạ, Khoang Xanh-Suối Tiên, hồ Suối Hai, Thiên Sơn-Suối Ngà.

Đến nay, trên địa bàn huyện đã có 15 đơn vị kinh doanh du lịch với các sản phẩm chủ yếu như du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, văn hóa, cộng đồng, hội thảo... trong đó hai loại hình du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng hoạt động có hiệu quả nhất, thu hút nhiều du khách tham gia.


Công tác phát triển du lịch ở Ba Vì hiện có nhiều chuyển biến tích cực, bước đầu đã khai thác được tiềm năng, lợi thế về các giá trị văn hóa, lịch sử, sinh thái, nhân văn. Cơ sở hạ tầng trong các khu du lịch được đầu tư nâng cấp, đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí ngày càng cao của du khách.

Ngoài ra, địa phương chú trọng đến công tác bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh trật tự, trong các điểm du lịch không có hiện tượng ăn xin chèo kéo, đeo bám du khách. Do vậy, lượng khách đến tham quan nơi đây ngày càng tăng. Riêng quý 2 năm nay, mặc dù chưa bước vào mùa du lịch nhưng lượng khách đến với Ba Vì đạt 5.600 lượt khách.

Trong thời gian tới, huyện Ba Vì sẽ phát triển thành vùng du lịch trọng điểm của thành phố; xây dựng các trung tâm du lịch đồng bộ và phát triển đa dạng hóa các sản phẩm du lịch như du lịch văn hóa, lễ hội, sinh thái, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí tại các điểm du lịch.

Huyện hình thành 3 vùng du lịch chính là vùng chân núi Ba Vì, khu vực hồ Suối Hai và vùng phụ cận, khu vực nước khoáng nóng và vùng sông Tích.

Ba Vì cũng tiếp tục rà soát và bổ sung hoàn thiện quy hoạch chi tiết và triển khai thực hiện các dự án du lịch sườn Tây núi Ba Vì, quy hoạch khu nước khoáng nóng Thuần Mỹ, dự án thị trấn Tản Viên Sơn..., đồng thời cải thiện môi trường và xúc tiến đầu tư, quảng bá du lịch.

 

Văn Miếu Quốc Tử Giám - Trường Đại học đầu tiên Việt Nam

(MYTOUR.VN) - LÀ QUẦN THỂ DI TÍCH ĐA DẠNG VÀ PHONG PHÚ HÀNG ĐẦU CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI, NẰM Ở PHÍA NAM KINH THÀNH THĂNG LONG. VĂN MIẾU QUỐC TỬ GIÁM CŨNG LÀ HÌNH ẢNH CHO NỀN GIÁO DỤC CỦA NƯỚC NHÀ. ĐÂY CHÍNH LÀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẦU TIÊN TẠI VIỆT NAM.

Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt. Quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám và vườn Giám, mà kiến trúc chủ thể là Văn Miếu - nơi thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám có tường gạch vồ bao quanh, phía trong chia thành 5 lớp không gian với các kiến trúc khác nhau. Mỗi lớp không gian đó được giới hạn bởi các tường gạch có 3 cửa để thông với nhau (gồm cửa chính giữa và hai cửa phụ hai bên). Từ ngoài vào trong có các cổng lần lượt là: cổng Văn Miếu, Đại Trung, Khuê Văn Các, Đại Thành và cổng Thái Học.[1] Với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu-Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến "cầu may" trước mỗi kỳ thi.


Vị trí:Đường Quốc Tử Giám, quận Đống Đa, Hà Nội.


Đặc điểm: Văn Miếu được xây dựng tháng 10 năm 1070, thờ Khổng Tử, các bậc Hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Năm 1076, nhà Quốc Tử Giám được xây kề sau Văn Miếu, ban đầu là nơi học của các hoàng tử, sau mở rộng thu nhận cả các học trò giỏi trong thiên hạ. Văn Miếu có tường bao quanh xây bằng gạch. Bên trong có những lớp tường ngăn ra làm 5 khu. Khu thứ nhất bắt đầu với cổng chính, trên cổng có chữ Văn Miếu, dưới cổng là đôi rồng đá mang phong cách thời Lê sơ (thế kỷ 15). Lối đi ở giữa dẫn đến cổng Đại Trung Môn mở đầu cho khu thứ hai. Hai bên còn hai cổng nhỏ. Vẫn lối đi ấy dẫn đến Khuê Văn Các (gác vẻ đẹp của sao khuê, chủ đề văn học). Hai bên gác cũng có hai cổng nhỏ. Khu thứ ba là từ gác Khuê Văn tới Đại Thành Môn, ở giữa khu này có một hồ vuông gọi là Thiên Quang Tỉnh (giếng trời trong sáng) có tường bao quanh.


Hai bên hồ là hai khu vườn bia tức nơi dựng các tấm bia ghi tên những người đỗ tiến sĩ (năm 1993 với sự tài trợ một phần của tổ chức doanh nghiệp Mỹ, Ban Quản lý Văn Miếu đã dựng được tám ngôi nhà che cho các bia này). Tiến sĩ là người đỗ cao nhất trong kỳ thi Đình. Ngày trước, người đi học sau khoảng 10 năm đèn sách đủ vốn chữ để dự thi Hương tức khoa thi tổ chức liên tỉnh; cứ ba năm mở một khoa. Đạt đỉểm cao của kỳ thi này đạt học vị Cử nhân. Năm sau các ông Cử tới kinh đô dự kỳ thi Hội. Những người đủ điểm chuẩn sẽ dự kỳ thi Đình (thi Hội và thi Đình thực ra là hai giai đoạn của một cuộc thi). Trúng tuyển kỳ thi này được gọi là Tiến sĩ. Đỗ Tiến sĩ có thể được bổ làm quan. Hiện có 82 bia, xưa nhất là bia ghi về khoa thi năm 1442, muộn nhất là bia khoa năm 1779. Đó 1à những di vật quý nhất của khu di tích. Bước qua cửa Đại thành là tới khu thứ tư. Một cái sân rộng, hai bên là dãy nhà Tả Vu, Hữu Vu, vốn dựng làm nơi thờ các danh nho. Cuối sân là nhà Đại bái và Hậu cung, kiến trúc đẹp và hoành tráng Tại đây có một số hiện vật quý: bên trái có chuông đúc năm 1768, bên phải có một tấm khánh đá, trên mặt có khắc bài văn nói về công dụng của loại nhạc khí này.

 

Bố cục của toàn thể Văn Miếu như vậy muộn nhất là cũng có từ đời Lê (thế kỷ 15 - thế kỷ 18). Riêng Khuê Văn Các mới được dựng khoảng đầu thế kỷ 19, nhưng cũng nằm trong quy hoạch tổng thể vốn có của những Văn Miếu (như Văn Miếu ở Khúc Phụ, Trung Quốc, quê hương của Khổng Tử, có đủ Đại Trung Môn, Khuê Văn Các, Đại Thành Môn, Đại Thành Điện, bia tiến sĩ...). Khuê Văn Các ở Văn Miếu Hà Nộị thường là nơi tổ chức bình các bài văn thơ hay của các sĩ tử Sau khu Đại Bái vốn là trường Quốc Tử Giám đời Lê, một loại trường đại học đương thời. Khi nhà Nguyễn rời trường này vào Huế thì nới đây chuyển làm đền Khải Thánh thờ cha và mẹ Khổng Tử, nhưng đền này đã bị hư hỏng trong chiến tranh.


Văn Miếu là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội. Ngày nay, Văn Miếu - Quốc Tử Giám là nơi rằm tháng Giêng hằng năm Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức báo cáo kết quả của nền văn học trong năm và bình những bài thơ hay. Đây là nơi nhà nước tổ chức trao các hàm, học vị: Giáo sư, Viện sĩ, Tiến sĩ. . . cho những trí thức mới. Hằng năm, cứ sau kỳ tốt nghiệp bậc đại học, thủ khoa của các trường được về Văn Miếu – Quốc Tử Giám để Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội trao bằng khen và tham quan rất nhiều hoạt động trong lĩnh vực văn hóa được tổ chức tại Văn Miếu. Đặc biệt, nơi đây cũng là điểm đến thăm quan du lịch của nhiều du khách trong và ngoài nước. 


Về mặt di tích mà nói thì 2 nhà bia Tiến sĩ ở 2 bên giếng Thiên Quang là nơi bảo tồn những di tích quý nhất của cả khu di tích lịch sử này. 82 tấm bia Tiến sĩ hiện còn có giá trị về nhiều mặt. Đây là những tư liệu văn tự bản gốc duy nhất được lưu giữ tại chỗ, liên tục kể từ khi được dựng.

Văn Miếu Quốc Tử Giám là di tích lịch sử mà người dân Việt lấy đó là tự hào, người đời thường truyền tau nhau rằng "nếu ai đến Hà Nội mà chưa đến Văn Miếu Quốc Tử Giám" thì chưa phải đi Hà Nội. Hàng năm mỗi lần vào dịp thi là các sĩ tử thường đến sờ đầu rùa. Nhưng mấy năm về đây, do nhiều sinh viên tình nguyện, sư chùa đến để mong các sĩ tử sẽ không sờ đàu rùa nữa vì như vậy sẽ bị mòn đầu rùa và việc này cũng đã hạn chế rất nhiều.