Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2013

Hấp dẫn trước vẻ đẹp của Mũi Điện

(MYTOUR.VN) - CÓ LẼ ĐỊA DANH MŨI ĐIỆN (MŨI ĐẠI LÃNH) ĐÃ QUÁ QUEN THUỘC VỚI NHỮNG NGƯỜI CON XỨ NẪU VÀ NHỮNG NGƯỜI YÊU THÍCH DU LỊCH CẢ NƯỚC. MŨI ĐIỆN LÀ MỘT THẮNG CẢNH TUYỆT ĐẸP THUỘC XÃ HÒA TÂM, H.ĐÔNG HÒA, PHÚ YÊN. ĐÂY LÀ ĐIỂM ĐẾN THÚ VỊ CHO NHỮNG NGƯỜI THÍCH KHÁM PHÁ, DU LỊCH.

Quãng đường khoảng 35km từ trung tâm thành phố Tuy Hòa cũng không thể gọi là xa, nhưng với một số người, họ có thể e ngại khi trời hè “nắng cháy da đầu” như thế này. Và đó thật sự là một cảm giác khác biệt khi bước lên xe và đặt chân xuống nơi đây. Xa rời cái nắng khô khan của thành phố, bên bạn sẽ là những cơn gió biển mát mẻ, làn nước trong xanh quyến rũ, trải nghiệm khi đặt chân lên ngọn hải đăng sừng sững để trải tầm mắt hay là người đã chinh phục điểm cực Đông trên đất liền Việt Nam và sự thân thiện từ ngôi nhà mà chúng ta gửi xe đến những người lính giữ hải đăng luôn vui vẻ, nhiệt tình.


Nơi này còn có tên gọi khác là mũi Đại Lãnh, mũi Nạy hay Cap Varella. Đây là nơi có doi đất liền nằm trên triền núi Bà của vùng núi Đại Lãnh thuộc dãy Trường Sơn nhô xa nhất ra biển Đông của Tổ quốc. Về mặt lịch sử, cuối thế kỷ 19, một người Pháp tên Varella phát hiện và ghi dấu tầm quan trọng của địa chỉ này trên bản đồ hàng hải. Đến năm 1890, Pháp xây dựng hải đăng trên đỉnh mũi Điện. Và do hoàn cảnh lịch sử, ngọn hải đăng nhiều năm tạm ngưng hoạt động, mãi đến 1995, nhà nước xây dựng lại và hải đăng chính thức hoạt động. Trên mũi Điện là ngọn hải đăng khối hình trụ cao 26,5 m so với nền tòa nhà và cao 110 m so với mặt nước biển. Đây là một trong 45 đèn biển cấp quốc gia với tín hiệu ánh sáng có thể đi xa 27 hải lý. 

Ngoài ý nghĩa lịch sử, cụm thắng cảnh mũi Điện, bãi Môn, Vũng Rô là điểm đến lý tưởng, thu hút sự chú ý của nhiều người. Đến đây, trước hết hãy thực hiện cuộc hành trình đi bộ theo con đường đá uốn theo sườn núi để đặt chân lên mũi Điện. Sau đó lên ngọn hải đăng, phóng tầm mắt ra xa để nhìn thấy một màu nước biển trong xanh, từng con sóng nhấp nhô cuộn đều vào bãi cát vàng tuyệt đẹp. Nếu ở lại qua đêm, không gì hấp dẫn bằng việc đứng trên điểm cực đông của đất liền ngắm ánh bình minh đầu tiên của một ngày mới.

Sau khi tham quan ngọn hải đăng, xuống núi thả mình trong làn nước trong xanh và mát lạnh ở thắng cảnh bãi Môn ngay dưới chân ngọn hải đăng để cảm nhận sự tinh khiết của đất trời. Từ bãi Môn, có thể ngắm nhìn đỉnh ngọn hải đăng cao vút, những vách đá to tạo thành khối chồng lên nhau dựng đứng như những kiệt tác thiên nhiên. Đến mũi Điện, du khách còn có thể ghé thăm di tích lịch sử của con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển. Trong kháng chiến chống Mỹ, hành trình vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam đã có 4 chuyến tàu không số cập bến Vũng Rô, trong đó có tàu 143 anh hùng tạo nên sự kiện Vũng Rô, một trong những khúc tráng ca vĩ đại của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển. 

Đi theo con đường hướng về cảng Vũng Rô, bạn sẽ thấy được đường giao cắt để đi lên lại Quốc lộ 1A, nằm trên Đèo Cả, ngược về hướng Bắc để trở về thành phố Tuy Hòa. Trên đoạn đường này, màu biển xanh mát sẽ được thay thế bằng màu xanh của cỏ cây, đồi núi, màu xanh của mạ non mới được gieo trên các cánh đồng trải dài sẽ giúp bạn thư thái trên quãng đường trở về.

Một ngày trôi qua với nhiều cảm giác thú vị, hòa mình vào thiên nhiên, sự thỏa mãn khi chinh phục tầm cao của ngọn hải đăng hay xa một chút là cột đánh dấu điểm cực Đông trên đất liền, hiểu thêm về lịch sử về vùng đất anh hùng hay những khoảnh khắc khó quên với người thân, bạn bè,… Đó sẽ là một ngày nghỉ đáng nhớ với bạn và mọi người và giúp bạn có tinh thần cho những ngày hoạt động sắp tới để khám phá, chinh phục những mục tiêu mới!

 

Đừng tận thu di sản

Di sản sẽ mang lại nguồn lợi, trong đó có tiền, nhưng nhất định không tận thu di sản.

 


Phố cổ Hội An đã thay đổi cuộc sống cho người dân theo hướng tích cực - Ảnh: Bạch Dương 

Đạo diễn người Pháp Philippe Bouler mỉm cười, gật đầu khi nghe tới Festival Huế. Ông đã gắn bó với nó 10 năm, từ ngày đầu gây dựng. Công việc của ông bộn bề, từ lên khung toàn bộ đến duyệt chi tiết từng chương trình nhỏ. Những màn múa lộng lẫy trên nước, với giọng ca trù ảo diệu của “tiếng phách trạng nguyên” Phó Thị Kim Đức. Ngựa giấy cốt tre tung vó trên trời vào lễ hội diều. Và cả những vườn rau cũng mở hội dưới bàn tay tổng chỉ huy của ông.  “Huế đã có nhiều tiến bộ rõ rệt. Mới 12 năm, chưa phải là một lễ hội lâu đời, nhưng thành phố đã thay đổi nhiều nhờ lễ hội. Nhiệm vụ đầu tiên chúng tôi đạt được, đó là phát triển kinh tế thành phố nhờ du lịch văn hóa, du lịch di sản. Đó là một thành công”, ông nói.

Bí quyết để Huế giàu có hơn, theo ông Philippe Bouler chính là phải biết khai thác bản sắc văn hóa của chính mình. Bản sắc Huế nằm ở những lăng tẩm hàng thế kỷ. Nó cũng nằm ở những nhà vườn xinh xắn, nơi khách du lịch thử nghiệm công việc của nông dân. Đó cũng là những bữa tiệc cung đình, nơi rồng phượng bay vờn trong cách trang trí từng món ăn cầu kỳ. “Điều quan trọng nhất là phải hiểu đúng bản sắc của mình để phát triển nó”, vị đạo diễn của nhiều Đêm trắng - một sự kiện di sản tại Pháp - nói.

Không chỉ tại Huế, nhiều di sản trong nước đã thay đổi cuộc sống cho người dân theo hướng tích cực. Cũng trong dải di sản ở miền Trung, từ Huế, chỉ đi thêm vài giờ ô tô là có thể tới Hội An. Ở đó, du lịch đã mang lại một mạch đập khác cho vùng đất từng là cảng thị nổi tiếng này. Những ngôi nhà cổ vẫn đứng cạnh chùa Cầu. Khu phố cổ san sát cửa hiệu. Sát bến sông có thêm cả không gian cho bài chòi đối đáp khi đèn lên.

Sau hiểu sai là tận thu, tận diệt

“Từ giữa những năm 1990, một sự thay đổi quan trọng liên quan đến công tác bảo tồn di sản văn hóa ở Việt Nam là sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế du lịch”, theo một nghiên cứu do UNESCO Việt Nam thực hiện. “Sự phát triển của du lịch đã tạo ra một môi trường mới cho sự hồi sinh của nhiều thực hành văn hóa cổ truyền sau nhiều năm bị lãng quên và mai một. Nguồn lợi kinh tế từ việc bán các sản phẩm văn hóa cho khách du lịch đã trở thành chất xúc tác cho người dân tự sưu tầm và tái tạo các thực hành và giá trị văn hóa truyền thống của họ”.

 Tuy nhiên, điều dễ thấy là di sản đang bị “bán rẻ”, bóp méo khi khai thác.

Cũng theo nghiên cứu của UNESCO Việt Nam, cồng chiêng của người Lạch ở Lâm Đồng đang khác đi so với cồng chiêng truyền thống. Tuy cồng chiêng truyền thống của người Lạch vẫn còn được sử dụng trong tang ma, nghi lễ pơthi, song tại các buổi giao lưu, đã có sự “thiên vị nhạc hiện đại”. Điều này khiến các già làng không đồng tình. “Họ bỏ tiền ra thì coi như là mình cũng phải phục vụ họ trong cái chương trình của mình”, một già làng cho biết trong phỏng vấn xã hội học. Tiền thu được từ du lịch đã bóp méo di sản cồng chiêng của ông.

Một hiện tượng khác đã được giới nghiên cứu cảnh báo là khai thác quá tải các di sản văn hóa. Tại hội nghị Việt Nam học mới nhất, một nhóm nghiên cứu Anh - Việt đã lên tiếng về việc quá nhiều khách, quá nhiều đèn chiếu đã làm hỏng lớp thạch nhũ của Phong Nha, Kẻ Bàng. Đèn chiếu sáng đã khiến nhũ không còn tươi mới. Du khách cũng làm bong tróc nền hang hóa thạch, làm bãi cát ngầm mất đi vẻ tơi xốp tự nhiên.

Cũng theo nghiên cứu của UNESCO về đền Hùng, quan điểm mở rộng xây dựng hạng mục phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí không được phù hợp. Chưa kể kế hoạch này còn tác động mạnh vào không gian sinh tồn của cư dân quanh vùng di sản. “Việc xây dựng khu vui chơi giải trí trong không gian thiêng sẽ làm ảnh hưởng nặng nề đến môi trường sinh thái ở núi Nghĩa Lĩnh. Nó cũng làm giảm tính thiêng của không gian thờ cúng Hùng Vương”, báo cáo cho biết.

“Muốn làm giàu từ di sản phải hiểu những nguyên lý của di sản đó”, PGS-TS Lương Hồng Quang, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa nói. “Ngoài ra, cần phải cân bằng giữa lợi ích của doanh nghiệp - cộng đồng - nhà nước. Trong việc cân bằng đó không bao giờ được quên người dân mới chính là chủ của di sản”.

Tuy nhiên, từ góc độ chính sách, UNESCO lại nhận định: “Trong khi cơ quan văn hóa là tổ chức chính chịu trách nhiệm bảo tồn di sản, tiếng nói của cơ quan này lại không được coi trọng trong các lĩnh vực quy hoạch và phát triển kinh tế xã hội. Điều này đã dẫn đến sự suy giảm và biến mất của nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Khi di sản văn hóa không đem lại giá trị kinh tế thì dễ có nguy cơ bị loại bỏ hoặc thay đổi chức năng sử dụng”.

Nhìn lại chính sách, đặt chính sách trên nền tảng hiểu đúng di sản - đây là cách buộc phải làm để di sản không còn bị tận thu, tận diệt.

Tháng: Mua sắm Việt Nam

Sáng 22-11, Sở Công thương và Sở Văn hóa - thể thao và du lịch TP.HCM đã chính thức phát động tháng khuyến mãi với tên gọi “Mua sắm Việt Nam” tại trung tâm thương mại Crescent Mall (Q.7). Đây được coi là sự kiện quan trọng thúc đẩy mua sắm, du lịch dịp cuối năm.

Theo kế hoạch, tháng khuyến mãi tết sẽ được thực hiện từ ngày 27-11-2013 đến hết 1-1-2014. Chương trình sẽ đồng loạt thực hiện khuyến mãi tại các điểm mua sắm lớn, trung tâm mua sắm có nhiều khách tham quan, các doanh nghiệp khách sạn, lữ hành..., hội chợ khuyến mãi hàng hóa với rất nhiều mặt hàng như may mặc, mỹ phẩm, thời trang, thực phẩm, dịch vụ ẩm thực, giải trí...

Ông Lã Quốc Khánh, phó giám đốc Sở Văn hóa - thể thao và du lịch TP.HCM, cho biết những năm trước đây các sở từng phối hợp thực hiện chương trình này, tuy nhiên chỉ dừng lại ở mức độ mỗi năm một lần vào tháng 9. Nhưng du lịch thì không thể chỉ có một mùa, vì vậy cần phải thực hiện xuyên suốt hoạt động khuyến mãi từ tháng 9 đến cuối năm nhằm kích cầu tiêu dùng, từ đó cũng thúc đẩy phát triển du lịch.

Cũng theo ông Khánh, lần tổ chức này không chỉ có hoạt động thương mại mà toàn bộ hoạt động du lịch cũng phải tham gia, từ lữ hành, ẩm thực, khách sạn... đều phải có chương trình khuyến mãi, giảm giá dành cho du khách.

Tuyên bố Ninh Bình về du lịch vì sự phát triển bền vững

Hội nghị quốc tế về Du lịch tâm linh vì sự phát triển bền vững được Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO), Bộ VHTTDL và UBND tỉnh Ninh Bình tổ chức trong 2 ngày 21, 22.11 tại chùa Bái Đính (TP.Ninh Bình). UNWTO xem Ninh Bình như là một trường hợp đặc biệt về sự phát triển thành công du lịch tâm linh.

 

Hội nghị có sự tham gia của trên 350 đại biểu quốc tế và trong nước từ các tổ chức quốc tế, cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan du lịch quốc gia các nước và vùng lãnh thổ…

Bài phát biểu của ông Nguyễn Văn Tuấn - Tổng Cục trưởng Tổng cục Du lịch - cho thấy nhu cầu du lịch tâm linh ở VN. Cụ thể, một số khu du lịch tâm linh tiêu biểu của VN đã tăng lên không ngừng trong 5 năm trở lại đây. Điển hình là chùa Bái Đính, lượng khách tăng từ 1,1 triệu lượt người (năm 2008), tăng lên 2,13 triệu lượt người (2012), tăng trung bình 27,8%/ mỗi năm. Sau đó là Yên Tử với mức tăng trung bình là 19,8%/mỗi năm; Côn Sơn – Kiếp Bạc (17,4%); Miếu Bà Chúa Xứ (10,5%)... Qua gần 20 tham luận tại hội nghị cho thấy, không chỉ ở VN, mà các nước khác có du lịch tâm linh phát triển như Butan, Ấn Độ, Tây Ban Nha...thì đi đôi với đà tăng trưởng cao sẽ là các hệ lụy về môi trường, về mai một văn hóa, về những dịch vụ mang tính thời vụ và những mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển - những vấn đề không dễ có lời giải.

Chính vì lẽ đó, hội nghị đã kết thúc với việc ra “Tuyên bố chung Ninh Bình về du lịch tâm linh vì sự phát triển bền vững”. Tuyên bố kêu gọi các bên liên quan: Tăng cường các khuôn khổ chính sách, các hoạt động kinh doanh có trách nhiệm và các nghiên cứu về du lịch tâm linh, trên cơ sở hợp tác chặt chẽ với cộng đồng địa phương, bảo vệ và giữ gìn các giá trị truyền thống; Tạo dựng các điều kiện phù hợp để sử dụng tài nguyên du lịch, sản phẩm du lịch tâm linh một cách có trách nhiệm và bền vững trong quá trình phát triển du lịch tâm linh nhằm tạo cơ hội việc làm, tăng cường đa dạng hoá sản phẩm, bảo tồn giá trị văn hóa bản địa;

Khuyến khích giáo dục và đào tạo nâng cao năng lực, hiểu biết của cộng đồng trong việc quản lý du lịch và tham gia xây dựng chính sách; Thúc đẩy và ủng hộ sự tiến bộ về kinh tế - xã hội của cộng đồng, các nhóm dân cư thông qua phát triển du lịch tâm linh, đặc biệt đối với người dân bản địa, dân tộc thiểu số, phụ nữ, thanh niên và người tàn tật; Tăng cường hợp tác quốc tế, thúc đẩy hòa hợp, đảm bảo sự tồn tại của các giá trị truyền thống thông qua thế hệ tương lai; Ủng hộ các nỗ lực nhằm tạo điều kiện cho việc liên kết các điểm du lịch tâm linh trên toàn thế giới.

Thách thức phát triển du lịch làng nghề ở Hà Nội

 Hà Nội có số làng nghề nhiều và phong phú nhất cả nước, đồng thời cũng giàu tiềm năng phát triển lĩnh vực du lịch làng nghề. Tuy nhiên, do thiếu định hướng phát triển và quy hoạch cơ bản nên du lịch làng nghề vẫn ở dạng tiềm năng.

Gắn kết du lịch với phát triển làng nghề

Ông Nguyễn Mạnh Cường, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Du lịch, cho rằng hiện nay các làng nghề vẫn chủ yếu hoạt động manh mún, nhỏ lẻ, tự phát triển, tự sản xuất và tìm đầu ra. Cơ sở hạ tầng vật chất phục vụ du lịch còn bất cập, sản phẩm làng nghề phục vụ du khách chưa đặc sắc, ít độ tinh xảo, thiếu tính hấp dẫn và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Người dân làng nghề còn thiếu kiến thức chung về nghiệp vụ du lịch và khả năng giao tiếp với du khách.

 

Biểu diễn làm Tranh dân gian Đông Hồ. Ảnh: VGP/Huy Anh

Sẵn có tiềm năng

Ông Nguyễn Văn Thủy, Chủ tịch UBND phường Vạn Phúc, Hà Đông, cho biết làng nghề dệt lụa Vạn Phúc luôn có sức thu hút lớn đối với du khách với mô hình tham quan nơi sản xuất, mua sắm các sản phẩm của làng lụa, cùng tham gia làm sản phẩm.

Về vị trí địa lý, làng lụa Vạn Phúc cách trung tâm Hà Nội hơn 10 km, trên trục đường giao thông cả đường bộ và đường sông, nằm trên đường đi một số địa điểm du lịch nổi tiếng khác của Hà Nội như Chùa Thầy, Chùa Hương, Làng cổ Đường Lâm... nên có thuận lợi cho khách du lịch đi tham quan dài ngày hoặc ngắn ngày.

Còn tại làng gốm Bát Tràng, ông Đào Xuân Hùng, Chủ tịch UBND xã Bát Tràng, cho biết chợ gốm Bát Tràng được thành lập từ năm 2004 với 120 ki ốt bán hàng, Thành phố cũng đã mở tuyến xe buýt Long Biên-Bát Tràng và tuyến du lịch sông Hồng từ Bến Chương Dương đến Bát Tràng, tạo thuận lợi cho khách du lịch đến tham quan, mua sắm tại đây.

Hằng năm, Bát Tràng đón khoảng 10.000 lượt khách quốc tế và trên 50.000 khách trong nước. Điều này giúp cho các cơ sở sản xuất, giới thiệu và bán sản phẩm của làng nghề từ gốm sứ xây dựng, gốm sứ dân dụng, gốm sứ mỹ nghệ xuất khẩu… góp phần quảng bá sản phẩm, quảng bá làng nghề. Hiện tỷ trọng thương mại dịch vụ của Bát Tràng là 47%, doanh thu hằng năm đạt trên 200 tỷ đồng.

Tuy nhiên, để phát triển du lịch kết hợp với làng nghề đúng hướng và hiệu quả, bà Đào Thu Vịnh, Phó Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội, cho rằng cần lựa chọn một số làng nghề truyền thống có tiềm năng, lợi thế về sản phẩm, cảnh quan, môi trường, có khả năng kết nối để có thể tổ chức đầu tư phát triển, khai thác, quảng bá trở thành điểm đến hấp dẫn của các tour du lịch.

Hiện Sở Công Thương đang lựa chọn một số làng nghề làm điểm dự án phát triển làng nghề kết hợp du lịch, lập báo cáo chuẩn bị đầu tư và triển khai thực hiện đầu tư xây dựng.

 

 

Sản phẩm mỹ nghệ làng nghề truyền thống Hà Nội. Ảnh: VGP/Huy Anh

Khó khăn vì đô thị hóa

Khó khăn lớn nhất hiện nay của một số làng nghề nổi tiếng có nguyên nhân từ đô thị hóa.

Ở Vạn Phúc, do diện tích trồng dâu ngày càng bị thu hẹp từ quá trình đô thị hóa nên thiếu nguyên liệu, chất lượng trứng tằm thấp cũng là một vấn đề khiến nguyên liệu dệt lụa suy giảm. Trong khi đó, điều kiện đầu tiên để giữ gìn việc phát triển làng nghề là phải tạo được nguyên liệu ổn định, không phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu.

Làng lụa hiện đang thiếu người phát triển sản phẩm, đặc biệt là người giỏi, có tâm huyết với làng nghề. Khi còn hoạt động mạnh và sôi nổi nhất, làng có hơn 1.000 máy dệt, cả ngày lẫn đêm đều không dứt tiếng dệt lụa. Hiện tại, số máy dệt chỉ còn 250 máy hoạt động, trong đó 1/3 là máy dệt lụa thường, số hộ tham gia dệt còn không đến 400 hộ.

Tình trạng đô thị hóa ở làng lụa Vạn Phúc diễn ra nhanh, hiện làng đã có những khu đô thị với những khu phố bán hàng sầm uất, nhà cửa mọc lên san sát, các tiểu thương buôn bán tập trung ở con đường vào làng.

Giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Vạn Phúc trước tiên cần tạo nguyên liệu để phát triển lụa, tạo được vùng trồng dâu nuôi tằm, hỗ trợ người dân trong việc phát triển cây giống, kỹ thuật trồng dâu và nuôi tằm, phát triển các nhà máy chế biến xử lý nguyên liệu để vừa tăng năng suất kén, vừa tăng chất lượng kén tơ tằm.

Bên cạnh đó, đào tạo lớp thợ kế cận có tay nghề để gìn giữ và phát triển làng nghề truyền thống, mở các lớp học sản xuất lụa. Đẩy mạnh quảng bá thương hiệu giúp lụa Vạn Phúc có chỗ đứng vững chắc trên thị trường.

Còn tại làng gốm Bát Tràng, địa phương đang liên kết với các đơn vị du lịch để triển khai nghiên cứu, xây dựng các tour đưa khách đến tham quan, giới thiệu về lịch sử văn hóa, làng nghề truyền thống, tham quan mua hàng gốm sứ tại địa phương; đề nghị Thành phố hỗ trợ làng nghề trong việc đầu tư dự án xây dựng Cảng du lịch Bát Tràng giai đoạn II, Khu thương mại giới thiệu làng nghề truyền thống…

Theo TS. Nguyễn Văn Lưu, Phó Vụ trưởng Vụ Đào tạo (Bộ VHTTDL), Hà Nội nên tiến hành 4 nhiệm vụ trong phát triển du lịch làng nghề như đánh giá lại nguồn nhân lực để có kế hoạch đào tạo phù hợp; tạo môi trường thuận lợi cho đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch làng nghề; thực hiện chuẩn hóa nhân lực du lịch làng nghề ở các lĩnh vực, ngành nghề theo nhu cầu thực tế ở địa phương; đẩy mạnh xã hội hóa công tác phát triển nhân lực du lịch làng nghề.

Quy hoạch phát triển du lịch Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã xác định quan điểm phát triển du lịch trên địa bàn Thủ đô là chất lượng cao, chuyên nghiệp, hiện đại, ưu tiên phát triển tối đa giá trị tiềm năng và lợi thế tài nguyên du lịch văn hóa, đa dạng hóa sản phẩm du lịch, phát triển du lịch với làng nghề truyền thống… Đến năm 2020 phấn đấu đón 21 triệu lượt khách du lịch và đến năm 2030 phấn đấu đón hơn 31 triệu lượt khách.

Từ những mục tiêu đã đặt ra, Hà Nội cần tiếp tục khai thác có hiệu quả các tiềm năng và lợi thế sẵn có từ những tài nguyên du lịch đến từ các làng nghề, phố nghề truyền thống trên địa bàn để thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế.

 

 

Tại Hà Nội, tính đến tháng 6/2013, giá trị sản xuất của làng nghề đạt 10.582 tỷ đồng (tăng 5,5% so với cùng kỳ năm ngoái). Một số làng nghề có giá trị sản xuất cao như làng nghề Sơn Mài Hạ Thái (Thường Tín); lụa Vạn Phúc (Hà Đông); gốm Bát Tràng, Giang Cao (Gia Lâm); mộc Chàng Sơn (Thạch Thất)…

Làng nghề Hà Nội hiện thu hút 739.630 người tham gia sản xuất với 175.889 hộ gia đình, 2.063 công ty cổ phần, 4.562 công ty TNHH, 1.466 Doanh nghiệp tư nhân, 164 Hợp tác xã và 50 Hội, hiệp hội. Thu nhập bình quân người lao động làng nghề đạt khoảng 25 triệu đồng/người/năm, một số huyện như Gia Lâm, Đông Anh, Hà Đông thu nhập đạt từ 30-33 triệu đồng/người/năm.

 

Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2013

Ăn mít trộn và ốc hút để nhớ Đà Nẵng

Du khách đến Đà Nẵng bất cứ mùa nào trong năm, mỗi chiều sau khi tắm biển xong, rủ bạn bè thưởng thức một đĩa mít trộn hay ốc hút thì còn gì bằng. Đã nghe “danh tiếng” mấy món ăn này, nên khi được mời, tôi khó có thể từ chối. Thật vậy, mấy món “ăn chơi” dân dã này không biết từ bao giờ đã trở nên vô cùng quen thuộc với người dân Đà Nẵng, và bây giờ đang được biết đến như một nét ẩm thực vô cùng độc đáo ở đây. Ngồi bên bạn bè, trò chuyện rôm rả, thưởng thức mấy món ăn quê, mới nhận ra đôi khi hạnh phúc thật giản đơn.

Cây mít ở Đà Nẵng mọc ở nhiều nơi, trái có vị rất đậm và thơm, món mít trộn cũng vì thế mà càng thêm đậm đà.

Người Đà Nẵng cũng như người dân sống trên dải đất miền Trung vốn mộc mạc, chất phác, vì thế các món ăn cũng đơn giản, không cầu kỳ trong chế biến. Tuy vậy, vị tinh tế và đậm đà thì không chê vào đâu được. Món mít trộn là như vậy.

Với món mít trộn, nguyên liệu cơ bản là giống nhau, cũng từ trái mít non luộc chín vừa tới rồi xắt sợi hoặc xé tơi để trộn gỏi, nhưng các hàng quán “nhà giàu” thì trộn với thịt ba rọi hoặc tôm thẻ, nhìn món ăn sang trọng hơn. Nhưng có lẽ đúng món mít trộn chân chất xứ này thì phải là trộn với da heo xắt sợi, thêm đậu phộng giã dập, hành phi, nước mắm chua ngọt với ít rau răm và húng lủi. Tất cả trộn đều với nhau, tạo nên mùi thơm quyến rũ, màu sắc cũng thật bắt mắt.

Ăn mít trộn thì không thể thiếu bánh tráng mè nướng giòn rụm. Bẻ một miếng bánh tráng, xúc một miếng mít trộn, cái giòn rụm của bánh tráng, vị bùi và ngọt của mít non, chút giòn sựt sựt của da heo, thêm vị thơm của đậu phộng, hành phi và chút cay cay của ớt, rau thơm... tất cả tạo nên một vị ngon không cưỡng được.



Mít trộn với tương ớt và bánh tráng

Đà Nẵng cũng là xứ nổi tiếng với món ốc xào xả ớt, mà người dân địa phương gọi dân dã là ốc út. Ốc miền Trung con nào con nấy nhỏ mà chắc thịt. Ốc gạo, ốc bươu, ốc đắng... nhiều vô số kể ở khắp nơi. Đem về ngâm thật sạch, rửa sạch rồi đợi ráo nước, đem xào với sả ớt, gia vị, công thức không có gì đặc biệt mà vị thì đậm đà khó quên. Có lẽ là do sự đậm đà vốn có trong cách thức chế biến 
món ăn của người Đà Nẵng đã tạo nên sự hấp dẫn cho món ăn này.

Món ốc hút đã trở thành quen thuộc với mọi người, nhất là các bạn trẻ và 
du khách phương xa tới Đà Nẵng. Rảnh rỗi, bạn bè rủ nhau đi "hút ốc", ngồi bên quán vỉa hè hút ốc bằng tay, miệng và tay dính màu ớt đỏ cay xè, ăn xong lâu rồi vẫn hít hà vị cay. Vậy mà vẫn thích. Sự đậm đà của sả, ớt và gia vị thấm vào từng con ốc tạo nên cái “sự ghiền” cho người ăn.

Đà Nẵng là một thành phố lớn ở miền Trung. Bên cạnh sự giàu có của hải sản và sự phong phú trong ẩm thực nơi đây, 
sự hấp dẫn của Đà Nẵng đôi khi đến từ những nét rất nhỏ, rất riêng và rất đặc biệt. Những món ăn chơi dân dã này chính là một trong những nét riêng đặc biệt đó. Bởi tôi đã vài lần nghe bạn bè rủ rê: Ghé Đà Nẵng chơi không? Tắm biển thỏa thích rồi làm đĩa mít trộn hay đĩa ốc hút cay xè cho đỡ nhớ.