Thứ Năm, 21 tháng 11, 2013

Sẵn sàng chào đón Festival Di sản Quảng Nam

(Mytour.vn) - Festival năm nay có 3 sự kiện chính: Triển lãm Không gian Di sản Văn hóa ASEAN, Hội thi hợp xướng quốc tế lần thứ III và Chung kết cuộc thi Hoa hậu các Dân tộc Việt Nam lần thứ III. Đại diện lãnh đạo tỉnh Quảng Nam đã tổ chức họp báo với đại diện các cơ quan thông tấn, báo chí, phát thanh và truyền hình trong cả nước về các hoạt động trong khuôn khổ Festival Di sản Quảng Nam lần thứ V năm 2013.

Ông Trần Minh Cả, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam, Trưởng Ban tổ chức lễ hội Festival Di sản Quảng Nam lần thứ V cho biết: Festival lần này là sự kiện văn hoá du lịch gắn với 10 năm Công ước quốc tế về bảo vệ Di sản văn hoá phi vật thể; là dịp để tôn vinh các giá trị di sản văn hoá Việt Nam, đặc trưng văn hoá Quảng Nam.

Rất nhiều sự kiện mang tính chất quốc tế sẽ kết hợp trong lễ hội nhằm mục đích chia sẻ kinh nghiệm và giao lưu văn hóa giữa các nước ASEAN; tạo ra sự gặp gỡ về một không gian di sản không chỉ của Việt Nam mà của các nước ASEAN. Các hoạt động bao gồm như: Các sự kiện quốc tế về bảo tồn và phát huy các giá trị di sản phi vật thể; hội thảo quốc tế về tăng trưởng xanh, hội thảo mang tính quốc tế về phát triển du lịch bền vững…



Ngoài 3 hoạt động chính là: Triển lãm “Không gian văn hoá Việt Nam – ASEAN”, “Hội thi Hợp xướng quốc tế lần thứ III tại Việt Nam – Hội An 2013” và “Chung kết cuộc thi hoa hậu các dân tộc Việt Nam lần thứ III”; Festival còn có hơn 20 hoạt động trải dài ở nhiều địa phương trong tỉnh từ đồng bằng đến miền núi như : Liên hoan Nghệ thuật truyền thống các dân tộc Việt Nam; Ngày hội Văn hoá Chăm; Tái hiện đêm Phố cổ, Hội An đầu thế kỉ XX; cùng nhiều hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao khác…

Đặc biệt dịp này, Quảng Nam cũng sẽ khai trương và giới thiệu đến du khách và các hãng lữ hành một số sản phẩm du lịch mới. Thông qua những sự kiện văn hóa, du lịch sẽ tiếp tục giới thiệu đến bạn bè và du khách quốc tế biết thêm về điểm đến hấp dẫn Hội An, Mỹ Sơn của Quảng Nam…

Tại buổi họp báo, Phó chủ tịch UBND tỉnh Trần Minh Cả công bố tổng số kinh phí từ các nhà tài trợ tính đến ngày 12/6 bằng tiền mặt và hiện vật là 34,5 tỉ đồng. Cơ sở hạ tầng về cơ bản đã hoàn thiện. Hiện nay nhà hát ngoài trời có mái che với 3.000 chỗ ngồi đã hoàn thành, sẽ bàn giao vào ngày 15/6 tới.

Dự kiến lượng khách trong và ngoài nước đến Quảng Nam dịp này sẽ tăng cao, do đó các ngành chức năng tỉnh Quảng Nam đang tích cực để bình ổn giá dịch vụ lưu trú, tránh tình trạng ghim phòng, tăng giá.

Hầu hết các khách sạn tại Hội An đều cam kết xây dựng bảng giá, bán theo giá niêm yết và ủng hộ 10% tổng số phòng phục vụ các đoàn biểu diễn tại Festival.

Nha Trang hội đua thuyền thúng vui nhộn

(Mytour.vn) - Hội thi đã thu hút được nhiều đội tham dự, trong đó có các chị em phụ nữ tham gia. Nằm trong khuôn khổ Festival biển 2013, sáng nay 11-6, hàng trăm người dân và du khách đã nô nức tới xem hội thi bơi thúng và lắc thúng trên biển Nha Trang, Khánh Hòa.

Hội thi nhằm giới thiệu với du khách nét đặc trưng trong đời sống, công việc của ngư dân Nha Trang, Khánh Hòa, đồng thời động viên đông đảo bà con ngư dân tập luyện thể thao tăng cường sức khỏe phục vụ lao động sản xuất, duy trì và phát triển môn thể thao mang đậm bản sắc dân tộc vùng biển đảo.


Tham gia hội thi năm nay có 11 đội đến từ các xã, phường trên địa bàn TP Nha Trang và 4 địa phương giáp biển là TP Cam Ranh, thị xã Ninh Hòa, huyện Cam Lâm và Vạn Ninh. Các đội lần lượt thi đấu ở 5 nội dung gồm đơn nam, đơn nữ, đôi nam, đôi nữ và đôi nam nữ. Trong đó lắc thúng có chặng đường đua 100m và bơi thúng là 200m.


Qua hội thi, các ngư dân đã trình diễn cho người xem những kỹ thuật độc đáo, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sức mạnh thể lực, sự khéo léo của cơ thể để lướt trên những con sóng.
 

Bảo vệ Di sản trước nguy cơ bị hủy diệt tại Quảng Nam

(Mytour.vn) - Ngày 23/6, Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam tổ chức Hội thảo quốc tế “10 năm thực hiện Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO - Bài học kinh nghiệm và định hướng tương lai.”

Hội thảo do Bộ VHTT-DL phối hợp với UBND tỉnh Quảng Nam và Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam tổ chức với sự tham dự của đại diện các địa phương trong nước và nhiều nhà khoa học Việt Nam và quốc tế.

Văn hóa phi vật thể có vai trò quan trọng trong kho tàng di sản văn hóa của mỗi dân tộc, là động lực chính của đa dạng văn hóa và sự đảm bảo cho phát triển bền vững. Quá trình toàn cầu hóa hiện nay cùng với những thay đổi lớn trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội đang đưa tới những mối đe dọa cho việc bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam cũng như trên thế giới.


Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch (VHTTDL)- Hồ Anh Tuấn cho rằng: "Chặng đường 10 năm qua, đủ độ dài để chúng ta lắng đọng, lan tỏa những tác động của Công ước bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể của UNESCO tới đời sống nhân loại. Có thể nhận thấy Công ước đã góp phần bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể; đảm bảo sự tôn trọng đối với di sản văn hoá phi vật thể của các cộng đồng; nâng cao nhận thức ở cấp địa phương, quốc gia và quốc tế về tầm quan trọng của di sản văn hoá phi vật thể; tạo ra sự hợp tác và hỗ trợ quốc tế".

Hội thảo khoa học này là dịp chúng ta cùng ngồi lại tổng kết những gì đã làm được, những gì chưa làm được qua 10 năm thực hiện Công ước, đánh giá một cách khách quan những thành tựu đã đạt được để tiếp tục phát huy và thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế, bất cập cần phải khắc phục trong chặng đường sắp tới.

“Chúng tôi mong muốn bên cạnh những kinh nghiệm về chính sách, chiến lược quốc gia và những hành động cụ thể thực thi Công ước bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể của UNESCO, các chuyên gia và các đại biểu có những đề xuất giải pháp cụ thể, sáng tạo, thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng của toàn cầu hoá tới việc bảo vệ và hơn nữa là phát huy vai trò di sản văn hoá phi vật thể mang tầm quốc tế”, Thứ trưởng Bộ VHTT-DL Hồ Anh Tuấn phát biểu.

Ông Hồ Anh Tuấn cũng đề nghị làm rõ vai trò của UNESCO và tầm quan trọng của Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể năm 2003 của UNESCO đối với công cuộc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam và trên thế giới. Trao đổi các kinh nghiệm về bảo vệ di sản, thúc đẩy sự giao lưu, hợp tác giữa các nước tham gia thực hiện Công ước, đặc biệt là các nước ASEAN trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, góp phần kết nối mạng lưới bảo vệ di sản trong khu vực và trên thế giới.

Ngoài ra, đánh giá, tổng kết quá trình 10 năm thực hiện Công ước 2003 của Việt Nam – những thành tựu và yếu kém; những cơ hội và thách thức đối với việc bảo vệ di sản theo đúng tinh thần của Công ước 2003 của UNESCO, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm thiết thực và đề xuất những giải pháp khả thi có thể nâng cao hiệu quả sự tham gia của Việt Nam vào việc thực hiện Công ước.

Bên cạnh đó, làm rõ mối quan hệ mật thiết giữa bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể với bảo tồn di sản văn hóa vật thể, với đa dạng văn hóa, với sự tham gia của xã hội (cộng đồng địa phương, các nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp…) vào công cuộc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.

Đối với Quảng Nam (địa phương có hai Di sản Văn hóa thế giới), TS. Trần Minh Cả - Phó Chủ tịch UBND tỉnh cho biết: "Bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể là một trong những nội dung quan trọng nhằm bảo tồn bản sắc dân tộc, giữ mối liên hệ giữa quá khứ và hiện tại, là điều kiện cơ bản và động lực để phát triển bền vững cộng đồng xã hội. Trong tiến trình phát triển lịch sử, các di sản văn hóa phi vật thể thường xuyên đứng trước nguy cơ bị hủy hoại do những tác động của con người và xã hội.

Đặc biệt, hiện nay việc khai thác tài nguyên di sản văn hoá và sự phát triển du lịch thiếu bền vững gây ảnh hưởng lớn đến môi trường, không gian sinh tồn của di sản văn hóa phi vật thể. Bên cạnh đó, thái độ ứng xử thiếu tôn trọng, xem nhẹ vai trò di sản cũng là một trong những nguy cơ tiềm ẩn đe dọa sự tồn vong của di sản văn hóa phi vật thể.

“Ý thức được tầm quan trọng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, bên cạnh việc chú trọng xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh Quảng Nam luôn quan tâm bảo tồn các loại hình di sản văn hóa phi vật thể, đặc biệt là những di sản văn hóa phi vật thể gắn với Di sản văn hóa thế giới phố cổ Hội An, Khu đền tháp Mỹ Sơn, Khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm”, Phó Chủ tịch Trần Minh Cả phát biểu.


Bên cạnh đó, xây dựng đề án, điều tra, sưu tầm, lập hồ sơ bảo vệ, phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể trong phát triển du lịch. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động nghiên cứu, bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể. Vận dụng tốt vai trò và trách nhiệm của cộng đồng trong việc bảo vệ di sản, gắn việc xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn hóa trong cộng đồng nhân dân với bảo vệ di sản để phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững.
Phát biểu tại hội thảo, bà Irina Bokova, Tổng Giám đốc UNESCO cho biết, năm 2013 là năm kết thúc 10 năm thực hiện Công ước quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Hiện đã có 150 nước cam kết thực hiện nhằm nỗ lực xây dựng những giá trị văn hóa, nỗ lực hơn nữa để bảo vệ các di sản. Từ năm 2015, cần kêu gọi các nước bảo vệ, coi trọng giá trị di sản, vì nếu không có văn hóa thì không có di sản.

“Chúng ta, những thành viên của Liên hiêp quốc cần tiếp tục nỗ lực tiếp cận việc bảo vệ di sản văn hoá. Chúng ta nên đặt ra mục tiêu bảo vệ di sản để phát triển bền vững. Bên cạnh đó cần nhận thức rõ về mối quan hệ giữa văn hóa và phhát triển, nhấn mạnh tầm quan trọng của văn hoá, nhất là văn hoá phi vật thể”, bà Irina Bokova phát biểu.

Tại hội thảo, các đại biểu đã tập trung thảo luận về bảo tồn và phát huy giá trị di sản, nhất là di sản văn hóa phi vật thể cũng như việc thực hiện Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO; phát huy sự hợp tác giữa các nước ASEAN trong việc bảo tồn di sản văn hóa; Việt Nam đã chủ động và sáng tạo thực hiện các quy định và khuyến nghị của UNESCO trong công ước 2003 về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể.

Các nội dung về nâng cao ý thức cộng đồng về vai trò của UNESCO và Công ước 2003 - cảm nhận hơi thở từ xa xưa tại điểm di sản văn hóa thế giới ở Việt Nam; suy ngẫm về việc thực hiện Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ở Mexico: 10 năm trải nghiệm và thử thách... cũng được đưa ra thảo luận tại hội thảo.

Điểm đến lý thú với bản sắc văn hóa độc đáo tại Hòa Bình

(Mytour.vn) - Là vùng đất cửa ngõ phía Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội - tỉnh Hòa Bình được coi là cái nôi của người Mường cổ, với nền văn hóa Hòa Bình đặc sắc, nơi quy tụ gần 200 di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh, trong đó có 64 di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh và quốc gia.

Địa hình đồi núi trùng điệp với các động Thác Bờ, Hang Rết, động Hoa Tiên, vùng rừng nhiệt đới nguyên sinh Pù Noọc mở ra những tuyến du lịch mạo hiểm leo núi, đi bộ, săn bắn, tắm suối. Sức người và thiên nhiên đã tạo cho Hòa Bình một vùng hồ sông Ðà thơ mộng cho phép phát triển du lịch vùng lòng hồ và ven hồ có đầy đủ vịnh, đảo và bán đảo mà ở đó động thực vật quý hiếm được bảo tồn. Thấp thoáng các bản Mường, bản Dao, bản Tày rải rác ven hồ, ven thung lũng tạo nên bức tranh sơn thủy hữu tình.


Cùng với đó là trên 50 bản, làng du lịch-văn hóa, đều là những nơi được đánh giá cao về tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng. Ông Bùi Ngọc Lâm, Giám đốc Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch cho rằng: Đây là lợi thế để du lịch Hòa Bình hấp dẫn du khách thập phương.

Đến với Hòa Bình, du khách sẽ có những trải nghiệm thú vị về nếp sinh hoạt, tính thân thiện và cuộc sống mộc mạc của người dân bản địa. Hòa Bình hấp dẫn du khách bởi nét nguyên sơ của nếp nhà sàn, đức tính giản dị và hiền hòa của con người nơi đây.



Đặc biệt, mới đây tạp chí Business Insider đã bình chọn Mai Châu (tỉnh Hòa Bình) là một trong mười địa danh hấp dẫn trên thế giới dành cho tour du lịch văn hóa địa phương: “Chỉ mất khoảng 3 giờ đi ôtô từ Hà Nội, Mai Châu là một điểm du lịch miền núi với những ngôi nhà sàn truyền thống nằm rải rác. Dân cư nơi đây chủ yếu là người Thái trắng sinh sống. Cách tốt nhất để bạn trải nghiệm văn hóa địa phương ở đây là tham gia loại hình du lịch homestay, nghĩa là sống và tham gia sinh hoạt cùng với những gia đình địa phương.”

Cùng với người Mường, người Thái, Tày, Dao, Mông… trong tỉnh sống xen kẽ, hòa hợp với nhau đã tạo nên sự phong phú và đặc sắc của các giá trị văn hóa. Cách trung tâm thành phố Hòa Bình 12km, bản Giang Mỗ, xã Bình Thanh (Cao Phong) là điểm đến lý tưởng của nhiều du khách nước ngoài.

Điểm nổi bật tạo nên sức hút đặc biệt cho bản Giang Mỗ là những nếp nhà sàn dân tộc Mường, sau bao nhiêu năm tháng vẫn giữ được vẹn nguyên nét mộc mạc với gần 100 ngôi nhà sàn còn giữ nguyên bản từ nhà cửa đến nếp sinh hoạt, hệ thống dẫn nước, cối giã gạo, cung, nỏ săn bắn, ruộng bậc thang cùng phương thức làm ruộng truyền thống, các lễ hội, phong tục tập quán Mường được người dân tái hiện từ thực tế cuộc sống.

Xa hơn, du khách có thể về với bản Cú, xã Tử Nê (Tân Lạc), bản Thấu, xã Lạc Sỹ (Yên Thủy)… Du lịch cộng đồng được đưa vào khai thác hơn 10 năm nay, đã đem lại lợi ích thiết thực cho người dân. Từ phát triển kinh tế, người dân đã ý thức được giữ gìn nếp sống hàng ngày, bản sắc văn hóa và đó là một yếu tố tạo nên thành công cho du lịch cộng đồng.

Đó là nét riêng của ngành du lịch Hòa Bình đang hướng đến khai thác, đầu tư cũng là định hướng xác đáng đã được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 11/NQ-TU về phát triển du lịch tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2007-2010, định hướng đến năm 2015: cần gắn phát triển du lịch với việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc và đặc thù văn hóa địa phương.


Ngoài ra, giá trị văn hóa được ẩn chứa trong các phong tục, tập quán, lễ hội. Các lễ hội văn hóa đậm đà bản sắc như: lễ hội Khai hạ Mường Bi (Tân Lạc), lễ hội chùa Tiên (Lạc Thủy), lễ hội chùa Hang (Yên Thủy), lễ mừng cơm mới của đồng bào dân tộc Mường, lễ hội Cấp sắc của đồng bào dân tộc Dao... được tổ chức đều đặn hàng năm để cầu cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng tốt tươi, hướng về nguồn cội đã làm thỏa mãn những du khách đam mê khám phá các giá trị cổ truyền. Cùng với các lễ hội, nhiều di tích văn hóa tín ngưỡng được các cấp bảo tồn và phát huy với nhiều hình thức: sưu tầm các di vật, cổ vật trên địa bàn; khơi dậy các sản phẩm du lịch độc đáo nhạc cụ cồng chiêng của người Mường.

Đặc biệt, cái nôi văn hóa của người Việt cổ giờ đây được in đậm trong các quần thể di tích có giá trị khảo cổ như hang Ma (Tân Lạc), hang Giỗ, hang xóm Trại (Lạc Sơn), hang Chổ (Lương Sơn)… Nhờ phát huy được các giá trị văn hóa đó, Hòa Bình ngày càng thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước. Riêng 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh đã đón khoảng 885.000 lượt khách du lịch, trong đó có 150.000 lượt khách quốc tế, 735.000 lượt khách nội địa tăng 20% so với cùng kỳ của năm 2012.

Hòa Bình được đánh giá là một trong những tỉnh có tiềm năng lớn về du lịch, tuy nhiên tỉnh vẫn chưa khai thác được thế mạnh đó. Hiện nay, hồ Hòa Bình ví như một vịnh Hạ Long trên cạn tuy đã đưa vào tuyến du lịch trọng điểm Quốc gia nhưng chưa thu hút được đầu tư. Khách du lịch lòng hồ Hòa Bình phần lớn là du lịch tâm linh đền Bờ, thăm một vài hang động, đảo dừa, đảo cối xay gió, tỉnh chưa có đầu tư tương xứng tạo điểm nhấn ở vùng đất sơn thủy hữu tình này. Để tạo ra một sản phẩm du lịch đặc thù hấp dẫn du khách cần có sự vào cuộc của các cấp, ngành, địa phương. Thực tế này đòi hỏi tỉnh Hòa Bình phải xây dựng chương trình hành động về du lịch thiết thực hơn, đẩy mạnh quảng bá rộng rãi những giá trị độc đáo của nền văn hóa cổ truyền.

Về Thanh Hóa dự lễ hội Mường Xia

(Mytour.vn) - Lễ hội mường xia là lễ hội tín ngưỡng, tâm linh gắn với thờ phụng người có công với đất nước như Tư Mã Hai Đào. Đó chính là nơi gửi Vía nơi hòn đá Vía và nét văn hoá nhân văn trong phong tục cúng tế tại 5 điểm trên địa bàn mường xia, mỗi điểm cúng đều gắn với truyền thuyết về Tư Mã Hai Đào.

Hoà cùng với không khí mùa xuân đang rộn ràng khắp nơi, hàng nghìn người dân và du khách thập phương lại nô nức đến vui Lễ hội Mường Xia diễn ra vào các ngày 24, 25, 26 tháng 3 âm lịch hàng năm.


Lễ hội Mường Xia là lễ hội tín ngưỡng, tâm linh gắn với thờ phụng người có công với đất nước là Tư Mã Hai Đào. Đó là nơi gửi vía ở Hòn đá Vía và là nét văn hoá nhân văn trong phong tục cúng tế của người Mường Xia. Lễ hội là nơi bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống của người Thái vùng biên giới Quan Sơn với các nghi lễ văn hóa tâm linh và hoạt động văn hóa thể thao như: ném còn, khua luống, kéo co, bóng chuyền, bắn nỏ… 

 

Ngoài các nghi lễ và trò chơi dân gian, lễ hội còn có nhiều tiết mục văn nghệ giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trong vùng. Lễ hội nhằm tôn vinh những người có công trong lịch sử dựng nước và giữ nước đồng thời khơi dậy nét đẹp truyền thống văn hoá, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc trên đất Mường Xia, góp phần giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước. Từ đó nâng cao tinh thần đoàn kết, niềm tự hào dân tộc, phấn đấu xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp văn minh.

Bình Định - Nét đẹp của Nón ngựa Phú Gia

(Mytour.vn) - Nón là món hàng thủ công mỹ nghệ độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa Bình Định. Nếu như quê hương Quan họ Bắc Ninh có nón quai thao, nón bài thơ là đặc sản của xứ Huế, thì người Bình Định tự hào với chiếc nón ngựa Phú Gia.

Để minh chứng cho sức sống kỳ diệu đó, hiện nay trên địa bàn tỉnh có rất nhiều làng nghề nón có tên tuổi như làng nón lá Thuận Hạnh (huyện Tây Sơn), làng nón Thuận Đức, làng nón Tân Đức, làng nón Châu Thành, làng nón Phú Thành (huyện An Nhơn), làng nón Kiều An, làng nón Kiều Huyên (huyện Phù Cát)… Đặc biệt, nghề nón ngựa Phú Gia, xã Cát Tường, huyện Phù Cát là một trong 5 làng nghề truyền thống được UBND tỉnh quy hoạch, gắn với phục vụ phát triển du lịch

Nón lá là một hình ảnh rất đặc trưng, gắn liền với trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Những chiếc nón quai thao của các cô gái xứ Bắc, nón bài thơ của cô gái Huế đã đi vào thi ca, càng tôn thêm nét quyến rũ, duyên dáng của phụ nữ Việt Nam… Chiếc nón ngựa Phú Gia của các cô gái đất võ Bình Định cũng vậy, nó được tạo nên từ bàn tay khéo léo, tài hoa của những người thợ thủ công gắn bó với nghề, tạo nên nét văn hóa riêng của miền đất võ.


Ở làng Phú Gia, xã Cát Tường, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, bên những rặng tre yên ả và những cây rơm còn thơm mùi rạ, hơn 300 năm qua, người dân nơi đây đã gắn liền với nghề làm nón ngựa, một sản phẩm độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của miền đất võ.

Ông Đỗ Văn Lan, 63 tuổi, 50 năm làm nghề, hiện là Tổ trưởng Làng nghề nón ngựa Phú Gia chia sẻ, người dân Bình Định vốn rất tự hào về chiếc nón ngựa nổi tiếng trong Nam ngoài Bắc, bởi xét trên bình diện lịch sử, từ thời Quang Trung, nón đã gắn liền với đội quân thần tốc Tây Sơn. Hiện nay, chiếc nón ngựa Phú Gia đã trở thành mặt hàng thủ công mỹ nghệ độc đáo với nguyên vẹn cốt cách ban đầu. Nếu như chiếc nón Bài Thơ của xứ Huế nổi tiếng với sự thanh lịch khi lồng trong lớp lá là hình ghép hoa lá cùng những câu thơ, câu văn thì nón ngựa Phú Gia là loại nón mang vẻ đẹp mạnh mẽ của con nhà võ, thường được thêu hoa văn theo các đề tài “long, lân, quy, phụng”, “lưỡng long tranh châu”, “mai, lan, cúc, trúc” hoặc cảnh vật trên nang sườn nón.

Ở vùng đất võ Bình Định, những chiếc nón có bịt bạc, chạm trổ hình rồng phượng trên đỉnh nón ngày xưa được giới quan lại, địa chủ dùng để đội khi cưỡi ngựa chính là lý do chiếc nón Phú Gia được gọi là nón ngựa.

Theo những nghệ nhân cao niên ở làng, nguyên liệu dùng làm nón ngựa là cây giang làm sườn, lá kè (cọ) làm lá lợp nón, cây dứa (thơm tàu) thì chải ra làm chỉ. Dụng cụ để sản xuất gồm lồng tre (để sấy khô lá kè), kéo chuyên dụng (cắt lá kè), dao vuốt (chẻ) nang sườn, bàn chốt nang (có những lỗ tròn nhiều kích cỡ khác nhau để tướt nang tròn đều), kim chuyên dụng chằm nón, khuôn nón mẫu. Ngày nay chỉ được thay thế bằng cước mịn, còn giang, cọ thông thường thì được lấy từ vùng núi Vân Canh. Để có một sản phẩm là chiếc nón ngựa đẹp thường phải qua bốn công đoạn cơ bản:

Tạo sườn mê: Rễ cây giang lấy từ trên núi đem phơi khô, chẻ thành những sợi nhỏ mỏng như sợi cước. Cách thức đan nang theo kiểu đan giỏ, các lỗ nang có hình lục giác tạo thành một miếng mê lớn.

Thắt nang sườn: Đặt miếng mê lên khuôn nón mẫu, khâu vành nang dưới cùng để tạo sườn hình nón. Tiếp đến là khâu sườn đứng và sườn ngang bằng các sợi giang có kích cỡ như sợi tăm. Hai công đoạn làm sườn nón này phải do những người thợ chuyên nghiệp thực hiện.

Thêu hoa văn trên sườn: Thông thường được thêu hoa văn theo các đề tài “long, lân, quy, phụng”, “lưỡng long tranh châu”, “mai, lan, cúc, trúc”, câu thơ, câu đối hoặc những cảnh vật trên nang sườn.

Lợp lá chằm chỉ: Ở công đoạn cuối cùng này, người ta hái lá kè tươi từ vùng núi Vĩnh Thạnh, Gia Lai về; lá được xử lý công phu, tước bỏ sống lá, phơi khô trong bóng râm, đặt trên chậu lửa và lồng tre để xông lá cho chín; sau đó đem ra ngoài trời phơi sương, hơ lửa để vuốt cho lá được thẳng, phẳng. Người thợ dùng kéo chuyên dụng có bản mỏng, lưỡi dài để cắt lá thành từng miếng nhỏ theo chiều cao nón. Xếp chồng mép mí lá bủa (xòe) đều xung quanh sườn nón từ đỉnh xuống. Sau khâu lợp lá, người ta bắt đầu chằm (khâu) lá vào sườn nón, chỉ chằm nằm dưới mí lá nên nhìn bên ngoài không thấy đường chằm. Để có một chiếc nón đẹp, việc chằm nón cần phải chú ý đến từng đường kim mũi chỉ phải thật khéo để lá kết chằm vào sườn không bị nghinh, bị lật mà trông nón vẫn thanh.

Chằm xong, người thợ cắt bỏ những sợi chỉ thừa dính trên bề mặt nón và không quên trang trí một chùm chỉ ngũ sắc ở đỉnh nón, thay cho chóp bịt bạc như xưa.

Mỗi công đoạn trên thường được chuyên môn hóa cho từng người trong gia đình. Và mỗi một gia đình như là một công xưởng có bộ máy điều hành sản xuất. Để nên hình một chiếc nón, tính tất cả các công đoạn thời gian ít nhất cũng mất hai, ba ngày.

Ngoài Phú Gia, những thôn lân cận của xã Cát Tường như Kiều Đông, Xuân Quang cũng làm nghề chằm nón, tuy nhiên tập trung nhiều nhất vẫn là ở Phú Gia. Nghề chằm nón gắn bó mật thiết với quá trình lập làng Phú Gia, do đó đa phần những nghệ nhân làm nón ở Phú Gia đều có tâm huyết với nghề truyền thống quê mình. Có những nghệ nhân cao tuổi nhưng hàng ngày vẫn gắn bó với công việc chằm nón, chính họ là những nghệ nhân trụ cột tiếp tục truyền nghề cho các thế hệ con cháu mai sau.

 

Nón ngựa Bình Định không chỉ có giá trị về mỹ thuật, là di sản văn hóa mà còn là một trong những sản phẩm đặc trưng của văn hóa trang phục Bình Định, nhất là đối với cô dâu trong ngày cưới. Chiếc nón không đơn giản chỉ là một vật đội đầu che nắng che mưa, mà còn là sản phẩm kết tinh của tính chăm chỉ, sáng tạo, sự khéo léo của người thợ và thể hiện trình độ văn hóa của vùng đất đã sản sinh ra nó.

Kể từ khi Liên hoan Quốc tế Võ cổ truyền Việt Nam được tổ chức tại Bình Định lần đầu năm 2006, rất đông du khách trong và ngoài nước đã đến tìm hiểu làng nghề nón ngựa Phú Gia, hầu hết đều thích loại nón này và khen ngợi bàn tay tài hoa, khéo léo của người thợ làm nón ngựa. Từ đó, sản phẩm nón ngựa Phú Gia, như một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, đã được các du khách quốc tế đặt hàng, mang về nước làm kỷ niệm khi tới thăm vùng đất võ Bình Định, Việt Nam.

Ngày xưa, từ xã trưởng trở lên mới có chụp bằng đồng hay bạc chạm trổ theo phẩm trật. Trên đỉnh là núm hình quả trám nhọn hoắt. Trông thầy Chánh, cụ Lý cưỡi ngựa đội nón chụp bạc thật là oai. Dân làng ngại cái uy của các thầy nên mới có bài đồng dao hóm hỉnh:
Thầy Chánh, nón chụp bạc, áo tam gian
Cưỡi ngựa qua làng con gái chạy te…

Ngày nay chóp nón để trần, trên đỉnh có một chùm chỉ ngũ sắc phất phơ như bông hoa. Nón sẽ được gia công thêm nếu khách có yêu cầu như để mặt lá nón được láng bóng, không bị thấm nước qua các lỗ kim khi trời mưa, người làm nón quét lên đó một lớp mỏng sơn dầu trong suốt, hoặc bọc nhựa nón sẽ bền và trông đẹp hơn.

Tùy vào chất lượng mà nón ngựa Phú Gia ngày nay có giá dao động từ 50.000 – 80.000 đồng/chiếc, nón làm theo nguyên mẫu truyền thống có giá 300.000 – 400.000 đồng/chiếc. Chiếc nón ngựa có chụp bạc trước đây có thể sử dụng 5 - 10 năm, còn nón thông thường có thể sử dụng từ 1 - 2 năm. Nón ngựa không chỉ có giá trị về mỹ thuật, là di sản văn hóa, là một trong những sản phẩm đặc trưng của văn hóa trang phục Bình Định, nhất là đối với cô dâu trong ngày cưới. Nón ngựa còn mang lại hiệu quả kinh tế cho làng nghề truyền thống. Nhiều phụ nữ nước ngoài đã tìm mua nón ngựa Phú Gia để sử dụng. Nón ngựa theo chân khách du lịch như một tác phẩm nghệ thuật độc đáo.