Thứ Năm, 21 tháng 11, 2013

Điểm đến lý thú với bản sắc văn hóa độc đáo tại Hòa Bình

(Mytour.vn) - Là vùng đất cửa ngõ phía Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội - tỉnh Hòa Bình được coi là cái nôi của người Mường cổ, với nền văn hóa Hòa Bình đặc sắc, nơi quy tụ gần 200 di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh, trong đó có 64 di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh và quốc gia.

Địa hình đồi núi trùng điệp với các động Thác Bờ, Hang Rết, động Hoa Tiên, vùng rừng nhiệt đới nguyên sinh Pù Noọc mở ra những tuyến du lịch mạo hiểm leo núi, đi bộ, săn bắn, tắm suối. Sức người và thiên nhiên đã tạo cho Hòa Bình một vùng hồ sông Ðà thơ mộng cho phép phát triển du lịch vùng lòng hồ và ven hồ có đầy đủ vịnh, đảo và bán đảo mà ở đó động thực vật quý hiếm được bảo tồn. Thấp thoáng các bản Mường, bản Dao, bản Tày rải rác ven hồ, ven thung lũng tạo nên bức tranh sơn thủy hữu tình.


Cùng với đó là trên 50 bản, làng du lịch-văn hóa, đều là những nơi được đánh giá cao về tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng. Ông Bùi Ngọc Lâm, Giám đốc Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch cho rằng: Đây là lợi thế để du lịch Hòa Bình hấp dẫn du khách thập phương.

Đến với Hòa Bình, du khách sẽ có những trải nghiệm thú vị về nếp sinh hoạt, tính thân thiện và cuộc sống mộc mạc của người dân bản địa. Hòa Bình hấp dẫn du khách bởi nét nguyên sơ của nếp nhà sàn, đức tính giản dị và hiền hòa của con người nơi đây.



Đặc biệt, mới đây tạp chí Business Insider đã bình chọn Mai Châu (tỉnh Hòa Bình) là một trong mười địa danh hấp dẫn trên thế giới dành cho tour du lịch văn hóa địa phương: “Chỉ mất khoảng 3 giờ đi ôtô từ Hà Nội, Mai Châu là một điểm du lịch miền núi với những ngôi nhà sàn truyền thống nằm rải rác. Dân cư nơi đây chủ yếu là người Thái trắng sinh sống. Cách tốt nhất để bạn trải nghiệm văn hóa địa phương ở đây là tham gia loại hình du lịch homestay, nghĩa là sống và tham gia sinh hoạt cùng với những gia đình địa phương.”

Cùng với người Mường, người Thái, Tày, Dao, Mông… trong tỉnh sống xen kẽ, hòa hợp với nhau đã tạo nên sự phong phú và đặc sắc của các giá trị văn hóa. Cách trung tâm thành phố Hòa Bình 12km, bản Giang Mỗ, xã Bình Thanh (Cao Phong) là điểm đến lý tưởng của nhiều du khách nước ngoài.

Điểm nổi bật tạo nên sức hút đặc biệt cho bản Giang Mỗ là những nếp nhà sàn dân tộc Mường, sau bao nhiêu năm tháng vẫn giữ được vẹn nguyên nét mộc mạc với gần 100 ngôi nhà sàn còn giữ nguyên bản từ nhà cửa đến nếp sinh hoạt, hệ thống dẫn nước, cối giã gạo, cung, nỏ săn bắn, ruộng bậc thang cùng phương thức làm ruộng truyền thống, các lễ hội, phong tục tập quán Mường được người dân tái hiện từ thực tế cuộc sống.

Xa hơn, du khách có thể về với bản Cú, xã Tử Nê (Tân Lạc), bản Thấu, xã Lạc Sỹ (Yên Thủy)… Du lịch cộng đồng được đưa vào khai thác hơn 10 năm nay, đã đem lại lợi ích thiết thực cho người dân. Từ phát triển kinh tế, người dân đã ý thức được giữ gìn nếp sống hàng ngày, bản sắc văn hóa và đó là một yếu tố tạo nên thành công cho du lịch cộng đồng.

Đó là nét riêng của ngành du lịch Hòa Bình đang hướng đến khai thác, đầu tư cũng là định hướng xác đáng đã được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 11/NQ-TU về phát triển du lịch tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2007-2010, định hướng đến năm 2015: cần gắn phát triển du lịch với việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc và đặc thù văn hóa địa phương.


Ngoài ra, giá trị văn hóa được ẩn chứa trong các phong tục, tập quán, lễ hội. Các lễ hội văn hóa đậm đà bản sắc như: lễ hội Khai hạ Mường Bi (Tân Lạc), lễ hội chùa Tiên (Lạc Thủy), lễ hội chùa Hang (Yên Thủy), lễ mừng cơm mới của đồng bào dân tộc Mường, lễ hội Cấp sắc của đồng bào dân tộc Dao... được tổ chức đều đặn hàng năm để cầu cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng tốt tươi, hướng về nguồn cội đã làm thỏa mãn những du khách đam mê khám phá các giá trị cổ truyền. Cùng với các lễ hội, nhiều di tích văn hóa tín ngưỡng được các cấp bảo tồn và phát huy với nhiều hình thức: sưu tầm các di vật, cổ vật trên địa bàn; khơi dậy các sản phẩm du lịch độc đáo nhạc cụ cồng chiêng của người Mường.

Đặc biệt, cái nôi văn hóa của người Việt cổ giờ đây được in đậm trong các quần thể di tích có giá trị khảo cổ như hang Ma (Tân Lạc), hang Giỗ, hang xóm Trại (Lạc Sơn), hang Chổ (Lương Sơn)… Nhờ phát huy được các giá trị văn hóa đó, Hòa Bình ngày càng thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước. Riêng 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh đã đón khoảng 885.000 lượt khách du lịch, trong đó có 150.000 lượt khách quốc tế, 735.000 lượt khách nội địa tăng 20% so với cùng kỳ của năm 2012.

Hòa Bình được đánh giá là một trong những tỉnh có tiềm năng lớn về du lịch, tuy nhiên tỉnh vẫn chưa khai thác được thế mạnh đó. Hiện nay, hồ Hòa Bình ví như một vịnh Hạ Long trên cạn tuy đã đưa vào tuyến du lịch trọng điểm Quốc gia nhưng chưa thu hút được đầu tư. Khách du lịch lòng hồ Hòa Bình phần lớn là du lịch tâm linh đền Bờ, thăm một vài hang động, đảo dừa, đảo cối xay gió, tỉnh chưa có đầu tư tương xứng tạo điểm nhấn ở vùng đất sơn thủy hữu tình này. Để tạo ra một sản phẩm du lịch đặc thù hấp dẫn du khách cần có sự vào cuộc của các cấp, ngành, địa phương. Thực tế này đòi hỏi tỉnh Hòa Bình phải xây dựng chương trình hành động về du lịch thiết thực hơn, đẩy mạnh quảng bá rộng rãi những giá trị độc đáo của nền văn hóa cổ truyền.

Về Thanh Hóa dự lễ hội Mường Xia

(Mytour.vn) - Lễ hội mường xia là lễ hội tín ngưỡng, tâm linh gắn với thờ phụng người có công với đất nước như Tư Mã Hai Đào. Đó chính là nơi gửi Vía nơi hòn đá Vía và nét văn hoá nhân văn trong phong tục cúng tế tại 5 điểm trên địa bàn mường xia, mỗi điểm cúng đều gắn với truyền thuyết về Tư Mã Hai Đào.

Hoà cùng với không khí mùa xuân đang rộn ràng khắp nơi, hàng nghìn người dân và du khách thập phương lại nô nức đến vui Lễ hội Mường Xia diễn ra vào các ngày 24, 25, 26 tháng 3 âm lịch hàng năm.


Lễ hội Mường Xia là lễ hội tín ngưỡng, tâm linh gắn với thờ phụng người có công với đất nước là Tư Mã Hai Đào. Đó là nơi gửi vía ở Hòn đá Vía và là nét văn hoá nhân văn trong phong tục cúng tế của người Mường Xia. Lễ hội là nơi bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống của người Thái vùng biên giới Quan Sơn với các nghi lễ văn hóa tâm linh và hoạt động văn hóa thể thao như: ném còn, khua luống, kéo co, bóng chuyền, bắn nỏ… 

 

Ngoài các nghi lễ và trò chơi dân gian, lễ hội còn có nhiều tiết mục văn nghệ giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trong vùng. Lễ hội nhằm tôn vinh những người có công trong lịch sử dựng nước và giữ nước đồng thời khơi dậy nét đẹp truyền thống văn hoá, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc trên đất Mường Xia, góp phần giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước. Từ đó nâng cao tinh thần đoàn kết, niềm tự hào dân tộc, phấn đấu xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp văn minh.

Bình Định - Nét đẹp của Nón ngựa Phú Gia

(Mytour.vn) - Nón là món hàng thủ công mỹ nghệ độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa Bình Định. Nếu như quê hương Quan họ Bắc Ninh có nón quai thao, nón bài thơ là đặc sản của xứ Huế, thì người Bình Định tự hào với chiếc nón ngựa Phú Gia.

Để minh chứng cho sức sống kỳ diệu đó, hiện nay trên địa bàn tỉnh có rất nhiều làng nghề nón có tên tuổi như làng nón lá Thuận Hạnh (huyện Tây Sơn), làng nón Thuận Đức, làng nón Tân Đức, làng nón Châu Thành, làng nón Phú Thành (huyện An Nhơn), làng nón Kiều An, làng nón Kiều Huyên (huyện Phù Cát)… Đặc biệt, nghề nón ngựa Phú Gia, xã Cát Tường, huyện Phù Cát là một trong 5 làng nghề truyền thống được UBND tỉnh quy hoạch, gắn với phục vụ phát triển du lịch

Nón lá là một hình ảnh rất đặc trưng, gắn liền với trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Những chiếc nón quai thao của các cô gái xứ Bắc, nón bài thơ của cô gái Huế đã đi vào thi ca, càng tôn thêm nét quyến rũ, duyên dáng của phụ nữ Việt Nam… Chiếc nón ngựa Phú Gia của các cô gái đất võ Bình Định cũng vậy, nó được tạo nên từ bàn tay khéo léo, tài hoa của những người thợ thủ công gắn bó với nghề, tạo nên nét văn hóa riêng của miền đất võ.


Ở làng Phú Gia, xã Cát Tường, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, bên những rặng tre yên ả và những cây rơm còn thơm mùi rạ, hơn 300 năm qua, người dân nơi đây đã gắn liền với nghề làm nón ngựa, một sản phẩm độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của miền đất võ.

Ông Đỗ Văn Lan, 63 tuổi, 50 năm làm nghề, hiện là Tổ trưởng Làng nghề nón ngựa Phú Gia chia sẻ, người dân Bình Định vốn rất tự hào về chiếc nón ngựa nổi tiếng trong Nam ngoài Bắc, bởi xét trên bình diện lịch sử, từ thời Quang Trung, nón đã gắn liền với đội quân thần tốc Tây Sơn. Hiện nay, chiếc nón ngựa Phú Gia đã trở thành mặt hàng thủ công mỹ nghệ độc đáo với nguyên vẹn cốt cách ban đầu. Nếu như chiếc nón Bài Thơ của xứ Huế nổi tiếng với sự thanh lịch khi lồng trong lớp lá là hình ghép hoa lá cùng những câu thơ, câu văn thì nón ngựa Phú Gia là loại nón mang vẻ đẹp mạnh mẽ của con nhà võ, thường được thêu hoa văn theo các đề tài “long, lân, quy, phụng”, “lưỡng long tranh châu”, “mai, lan, cúc, trúc” hoặc cảnh vật trên nang sườn nón.

Ở vùng đất võ Bình Định, những chiếc nón có bịt bạc, chạm trổ hình rồng phượng trên đỉnh nón ngày xưa được giới quan lại, địa chủ dùng để đội khi cưỡi ngựa chính là lý do chiếc nón Phú Gia được gọi là nón ngựa.

Theo những nghệ nhân cao niên ở làng, nguyên liệu dùng làm nón ngựa là cây giang làm sườn, lá kè (cọ) làm lá lợp nón, cây dứa (thơm tàu) thì chải ra làm chỉ. Dụng cụ để sản xuất gồm lồng tre (để sấy khô lá kè), kéo chuyên dụng (cắt lá kè), dao vuốt (chẻ) nang sườn, bàn chốt nang (có những lỗ tròn nhiều kích cỡ khác nhau để tướt nang tròn đều), kim chuyên dụng chằm nón, khuôn nón mẫu. Ngày nay chỉ được thay thế bằng cước mịn, còn giang, cọ thông thường thì được lấy từ vùng núi Vân Canh. Để có một sản phẩm là chiếc nón ngựa đẹp thường phải qua bốn công đoạn cơ bản:

Tạo sườn mê: Rễ cây giang lấy từ trên núi đem phơi khô, chẻ thành những sợi nhỏ mỏng như sợi cước. Cách thức đan nang theo kiểu đan giỏ, các lỗ nang có hình lục giác tạo thành một miếng mê lớn.

Thắt nang sườn: Đặt miếng mê lên khuôn nón mẫu, khâu vành nang dưới cùng để tạo sườn hình nón. Tiếp đến là khâu sườn đứng và sườn ngang bằng các sợi giang có kích cỡ như sợi tăm. Hai công đoạn làm sườn nón này phải do những người thợ chuyên nghiệp thực hiện.

Thêu hoa văn trên sườn: Thông thường được thêu hoa văn theo các đề tài “long, lân, quy, phụng”, “lưỡng long tranh châu”, “mai, lan, cúc, trúc”, câu thơ, câu đối hoặc những cảnh vật trên nang sườn.

Lợp lá chằm chỉ: Ở công đoạn cuối cùng này, người ta hái lá kè tươi từ vùng núi Vĩnh Thạnh, Gia Lai về; lá được xử lý công phu, tước bỏ sống lá, phơi khô trong bóng râm, đặt trên chậu lửa và lồng tre để xông lá cho chín; sau đó đem ra ngoài trời phơi sương, hơ lửa để vuốt cho lá được thẳng, phẳng. Người thợ dùng kéo chuyên dụng có bản mỏng, lưỡi dài để cắt lá thành từng miếng nhỏ theo chiều cao nón. Xếp chồng mép mí lá bủa (xòe) đều xung quanh sườn nón từ đỉnh xuống. Sau khâu lợp lá, người ta bắt đầu chằm (khâu) lá vào sườn nón, chỉ chằm nằm dưới mí lá nên nhìn bên ngoài không thấy đường chằm. Để có một chiếc nón đẹp, việc chằm nón cần phải chú ý đến từng đường kim mũi chỉ phải thật khéo để lá kết chằm vào sườn không bị nghinh, bị lật mà trông nón vẫn thanh.

Chằm xong, người thợ cắt bỏ những sợi chỉ thừa dính trên bề mặt nón và không quên trang trí một chùm chỉ ngũ sắc ở đỉnh nón, thay cho chóp bịt bạc như xưa.

Mỗi công đoạn trên thường được chuyên môn hóa cho từng người trong gia đình. Và mỗi một gia đình như là một công xưởng có bộ máy điều hành sản xuất. Để nên hình một chiếc nón, tính tất cả các công đoạn thời gian ít nhất cũng mất hai, ba ngày.

Ngoài Phú Gia, những thôn lân cận của xã Cát Tường như Kiều Đông, Xuân Quang cũng làm nghề chằm nón, tuy nhiên tập trung nhiều nhất vẫn là ở Phú Gia. Nghề chằm nón gắn bó mật thiết với quá trình lập làng Phú Gia, do đó đa phần những nghệ nhân làm nón ở Phú Gia đều có tâm huyết với nghề truyền thống quê mình. Có những nghệ nhân cao tuổi nhưng hàng ngày vẫn gắn bó với công việc chằm nón, chính họ là những nghệ nhân trụ cột tiếp tục truyền nghề cho các thế hệ con cháu mai sau.

 

Nón ngựa Bình Định không chỉ có giá trị về mỹ thuật, là di sản văn hóa mà còn là một trong những sản phẩm đặc trưng của văn hóa trang phục Bình Định, nhất là đối với cô dâu trong ngày cưới. Chiếc nón không đơn giản chỉ là một vật đội đầu che nắng che mưa, mà còn là sản phẩm kết tinh của tính chăm chỉ, sáng tạo, sự khéo léo của người thợ và thể hiện trình độ văn hóa của vùng đất đã sản sinh ra nó.

Kể từ khi Liên hoan Quốc tế Võ cổ truyền Việt Nam được tổ chức tại Bình Định lần đầu năm 2006, rất đông du khách trong và ngoài nước đã đến tìm hiểu làng nghề nón ngựa Phú Gia, hầu hết đều thích loại nón này và khen ngợi bàn tay tài hoa, khéo léo của người thợ làm nón ngựa. Từ đó, sản phẩm nón ngựa Phú Gia, như một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, đã được các du khách quốc tế đặt hàng, mang về nước làm kỷ niệm khi tới thăm vùng đất võ Bình Định, Việt Nam.

Ngày xưa, từ xã trưởng trở lên mới có chụp bằng đồng hay bạc chạm trổ theo phẩm trật. Trên đỉnh là núm hình quả trám nhọn hoắt. Trông thầy Chánh, cụ Lý cưỡi ngựa đội nón chụp bạc thật là oai. Dân làng ngại cái uy của các thầy nên mới có bài đồng dao hóm hỉnh:
Thầy Chánh, nón chụp bạc, áo tam gian
Cưỡi ngựa qua làng con gái chạy te…

Ngày nay chóp nón để trần, trên đỉnh có một chùm chỉ ngũ sắc phất phơ như bông hoa. Nón sẽ được gia công thêm nếu khách có yêu cầu như để mặt lá nón được láng bóng, không bị thấm nước qua các lỗ kim khi trời mưa, người làm nón quét lên đó một lớp mỏng sơn dầu trong suốt, hoặc bọc nhựa nón sẽ bền và trông đẹp hơn.

Tùy vào chất lượng mà nón ngựa Phú Gia ngày nay có giá dao động từ 50.000 – 80.000 đồng/chiếc, nón làm theo nguyên mẫu truyền thống có giá 300.000 – 400.000 đồng/chiếc. Chiếc nón ngựa có chụp bạc trước đây có thể sử dụng 5 - 10 năm, còn nón thông thường có thể sử dụng từ 1 - 2 năm. Nón ngựa không chỉ có giá trị về mỹ thuật, là di sản văn hóa, là một trong những sản phẩm đặc trưng của văn hóa trang phục Bình Định, nhất là đối với cô dâu trong ngày cưới. Nón ngựa còn mang lại hiệu quả kinh tế cho làng nghề truyền thống. Nhiều phụ nữ nước ngoài đã tìm mua nón ngựa Phú Gia để sử dụng. Nón ngựa theo chân khách du lịch như một tác phẩm nghệ thuật độc đáo.

Nét đẹp văn hóa Bắc Giang: Tiếng hát Sịnh ca người Cao Lan

(Mytour.vn) - Hát sình ca là điệu hát của người dân tộc Cao Lan, được tổ chức theo từng nhóm: một nhóm nam và một nhóm nữ hát đối đáp. Các bài hát này thường được chép bằng Hán Nôm, chia thành nhiều phần: hỏi thăm, làm quen, giới thiệu bản thân, trao đổi tâm tư tình cảm, lời chúc..., những phần này được gộp chung một bài.

Mùa xuân lễ hội đem hát đối đáp giao duyên, bài hát gần gũi với đời thường của bà con, hương đồng gió nội khắp bản làng vùng sâu vùng xa. Làn điệu đã góp phần không nhỏ cho những đôi lứa thành vợ chồng.


Vượt qua những con đường ngoằn ngoèo, uốn lượn, chúng tôi về với xã Đèo Gia, Lục Ngạn, Bắc Giang (một xã vùng sâu với hơn 70% dân tộc Cao Lan sinh sống) để thưởng thức những câu hát Sịnh ca làm mê đắm lòng người.
Toàn bộ kho tàng văn hóa của người Cao Lan đều được phản ánh trọn vẹn qua những làn điệu Sịnh ca ngọt ngào. Trải qua thời gian, dù cuộc sống của người dân còn nhiều khó khăn, vất vả nhưng những làn điệu Sịnh ca vẫn được người Cao Lan nơi đây gìn giữ và luôn hiện hữu trong cuộc sống, sinh hoạt của họ.

Hiện Câu lạc bộ hát Sịnh ca ở Đèo Gia có 24 thành viên do ông Chung Văn Thảo làm chủ nhiệm. Ông Thảo tâm sự: Người Cao Lan ở Đèo Gia không ai biết tục hát Sịnh ca có từ khi nào, chỉ biết rằng trong tâm khảm của rất nhiều thế hệ người Cao Lan, Sịnh ca được sinh ra khi loài người chưa có cái chữ và điệu nhạc.

Họ đều tin rằng Sịnh ca như một ân huệ mà thượng đế đã ban tặng cho họ. Người cao tuổi nhất trong câu lạc bộ đã gần 80 tuổi, thành viên nhỏ tuổi nhất mới 15, 16 tuổi.

Câu lạc bộ thường sinh hoạt mỗi tháng một lần tại nhà văn hóa thôn Cống Luộc. Đây là thôn có nhiều hạt nhân biết hát và giữ được giọng hát Sịnh ca hay nhất, đồng thời có đội văn nghệ hát Sịnh ca ra đời sớm nhất xã.

Tham gia một buổi sinh hoạt của Câu lạc bộ hát Sịnh ca Đèo Gia mới thấy hết ý nghĩa của thể loại văn hóa đặc sắc này.

Đối với mỗi thành viên trong câu lạc bộ, mỗi buổi sinh hoạt không chỉ là dịp họ được gặp gỡ, chuyện trò, cùng nhau cất lên những làn điệu Sịnh ca da diết đằm thắm, mà đây còn là khoảnh khắc để người dân Cao Lan cùng ôn lại những giá trị xưa cũ của cha ông qua từng làn điệu Sịnh ca cổ.

Họ biết rằng, họ hát để gìn giữ và bảo tồn báu vật truyền thống của ông cha để lại, như lời tri ân tới những cố nhân người Cao Lan.

Nhiều thành viên trong câu lạc bộ vẫn giữ được giọng hát tốt như bà Hoàng Thị Đào, Bàng Thị Hội, Nình Thị Quý, Tống Thị Hạnh…

Ông Đàm Quang Lộc là thành viên cao tuổi nhất của câu lạc bộ và có lẽ tuổi tác của ông cũng tương đồng với vốn hiểu biết về làn điệu Sịnh ca của người Cao Lan ở Đèo Gia.

Hiện ông là người duy nhất lưu giữ và truyền dạy những làn điệu Sịnh ca cho các thành viên trong câu lạc bộ. Ông không những có giọng hát khỏe, sâu, da diết mà còn có khả năng sáng tác những làn điệu Sịnh ca mới của dân tộc.

Với những cống hiến và tài năng của mình, các thành viên trong câu lạc bộ đều gọi ông là nghệ nhân Đàm Quang Lộc. Với họ, ông chính là báu vật, là linh hồn sống cho làn điệu Sịnh ca ở Đèo Gia được vang mãi đến bây giờ.

Ông Lộc cho biết Sịnh ca của người Cao Lan gồm nhiều loại nhưng tựu trung lại có hai hình thức chính là Sịnh ca ban ngày và Sịnh ca ban đêm. Điều đặc biệt, làn điệu Sịnh ca của người Cao Lan là lối hát giao duyên, không có nhạc đệm, chủ yếu dựa vào tài ứng khẩu của người hát, qua đó thể hiện trí tuệ của người Cao Lan xưa.

Người hát và người sáng tác thường lấy cảnh đẹp của quê hương làng bản, những cảnh trong sinh hoạt, trong cuộc sống hàng ngày, hay những câu chuyện cổ tích, thần thoại, hát mừng năm mới, hát đối đáp mùa xuân, hát ở nhà, hát ở đình… làm đề tài hấp dẫn trong sinh hoạt văn nghệ của mình.

Làn điệu Sịnh ca của người Cao Lan ở Đèo Gia vừa phong phú về thể loại lại vừa hấp dẫn về nội dung. Đến nay, hơn 400 bài hát với nhiều thể loại và nội dung khác nhau còn được lưu giữ ở Đèo Gia. Có bài hát thể hiện tình yêu nam nữ, thể hiện tình yêu của con người với cuộc sống với thiên nhiên, phần nhiều bài hát mới lại thể hiện lòng biết ơn với Đảng, Bác Hồ và con đường đổi mới của quê hương, dân tộc.


Sự khác biệt đáng nói ở làn điệu Sịnh ca của người Cao Lan chính là làn điệu vừa chứa đựng chất thơ, vừa phản ánh giá trị nhân văn sâu sắc của con người.

Nói cách khác, Sịnh ca không chỉ là những câu thơ có vần có điệu mà còn là một hình thức dân ca thể hiện sâu sắc trí tuệ và xúc cảm về nhân sinh quan, thế giới quan của người Cao Lan.

Qua Sịnh ca, người nghe có thể nhận thấy vẻ đẹp tâm hồn của người Cao Lan bình dị mà tinh tế, mộc mạc mà chân thành.

Tuy nhiên, ông Lộc cũng trăn trở những làn điệu Sịnh ca đã và đang bị mai một đi rất nhiều vì hầu hết những bài Sịnh ca Cao Lan đều được viết bằng chữ Hán.

Do vậy, chỉ những người biết chữ Hán và có tuổi mới đọc, hiểu, dịch những bài Sịnh ca. Lớp người trung niên và mới lớn không biết chữ Hán thì không đọc được nên rất khó hiểu nội dung của các câu hát mặc dù có học thuộc lòng đi chăng nữa.

Với giá trị độc đáo và giàu bản sắc dân ca, Sịnh ca ở Đèo Gia được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của quốc gia. Đây vừa là niềm tự hào vừa là trách nhiệm lớn lao của dân tộc Cao Lan ở Đèo Gia nói riêng, đảng bộ và chính quyền huyện Lục Ngạn nói chung trong việc giữ gìn và phát huy giá trị của làn điệu Sịnh ca.

Để tiếp tục duy trì và bảo tồn giá trị văn hóa phi vật thể này, câu lạc bộ dân ca Sịnh ca xã Đèo Gia đã kết nạp thêm nhiều thành viên trẻ tuổi. Mỗi buổi sinh hoạt chính là dịp các thành viên lớn tuổi truyền dạy cho con cháu của mình.

Họ dạy từ cách thuộc bài hát đến cách lấy giọng hát như thế nào. Đến nay, nhiều thành viên trẻ trong câu lạc bộ đã thành thạo và hát tốt nhiều làn điệu Sịnh ca, tiêu biểu là các em Chung Thị Yên, Hoàng Văn Lý, Tô Thị Tâm, Bàng Văn Mạnh.

Ông Đặng Minh Tuy - Giám đốc Trung tâm Văn hóa, Thể thao huyện Lục Ngạn cho biết ngoài việc thành lập câu lạc bộ hát Sịnh ca để giữ gìn và truyền dạy cho thế hệ trẻ, hàng năm huyện đều tổ chức Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch huyện Lục Ngạn, đồng thời mở lớp dạy chữ Hán-Nôm, nhằm giúp người trẻ của các dân tộc có thể đọc và hiểu được ý nghĩa những làn điệu dân ca của dân tộc mình.

Lễ hội cầu ngư tại Huế

(Mytour.vn) - Tối 22/8, lễ khai mạc Lễ hội cầu ngư năm 2013 với chủ đề Phong Hải biển nhớ, đã diễn ra tại xã Phong Hải, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Lễ hội mang màu sắc tâm linh cũng như giá trị văn hóa nơi đây.

Lễ hội cầu ngư tại xã Phong Hải không những tôn vinh những giá trị văn hóa của dân tộc, mà còn có ý nghĩa về mặt tâm linh của người dân vùng biển nói chung và xã Phong Hải nói riêng, tạo nên sức mạnh tổng hợp để xây dựng quê hương đất nước.


Thông qua lễ hội, huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, phấn đấu xây dựng xã Phong Hải trở thành xã nông thôn mới trong năm 2014 và xây dựng địa phương anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới. Lễ hội Cầu ngư đã diễn ra 2 ngày, 2 đêm từ 22-23/8/2013.

Mở đầu Lễ hội Cầu ngư Phong Hải là phần nghi lễ truyền thống cúng tế thần linh được tổ chức trang trọng, tôn nghiêm tại bờ biển do các vị bô lão có uy tín tiến hành. Tiếp theo là phần hội với màn múa náp, rồng sư tử và hoạt cảnh làm trò trên cạn thể hiện lại cảnh đánh bắt và mua bán cá tôm của một làng chài ven biển…

Sau đó là đám rước thần từ bờ biển qua các thôn xóm đến đình làng. Bên cạnh đó, có nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật, đặc biệt là tiết mục thả hoa đăng trên biển đầy sắc màu và hấp dẫn.

Vùng quê Phong Hải được hình thành hơn 400 năm, nghề chính của người dân là đánh bắt thủy sản. Hằng năm, các nghi thức cúng tế thần biển vẫn được người dân ở đây coi trọng. Hiện nay, trên địa bàn xã có gần 200 tàu đánh bắt cá lớn nhỏ, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của địa phương. Những năm gần đây, xã còn phát triển nghề nuôi tôm trên cát, mang lại nguồn nhu nhập lớn làm thay đổi bộ mặt nông thôn mới.

Vì thế, Lễ hội Cầu ngư không những gìn giữ mà còn phát huy những giá trị văn hóa truyền thống thông qua các lễ hội để ngư dân-những con người luôn phải đối mặt với nhiều bất trắc khi lênh đênh trên biển cả thể hiện khát vọng bình yên, đánh bắt, nuôi trồng được nhiều hải sản, dân làng no ấm, người người hạnh phúc.

Thừa Thiên Huế có 125 km bờ biển trải dài từ huyện Phong Điền đến chân đèo Hải Vân, với nhiều bãi biển, cửa biển, cùng với 22.000 ha đầm phá mang trong mình tiềm năng về tài nguyên biển, đầm phá phong phú, đa dạng.

Lễ hội Cầu ngư là một lễ hội văn hóa truyền thống dân gian mang ý nghĩa tâm linh, thể hiện một khát vọng của cư dân vùng ven biển, đầm phá, trong ý nguyện cầu cho mưa thuận gió hòa, trời yên biển lặng, tri ân các bậc tiền bối ra khơi biển lặng trở về đất liền bình yên, tôm cá đầy ghe.

Hà Giang: lễ hội khèn Mông đậm đà bản sắc vùng cao

(Mytour.vn) - Tận hưởng những giai điệu âm nhạc truyền thống cùng những nụ cười trên môi đậm đà bản sắc dân tộc tại Hà Giang trong dịp nghỉ lễ mùng 2/9 vừa qua. Những âm thanh đặc sắc trong Lễ hội Khèn Mông Hà Giang lần thứ nhất tổ chức tại phố cổ Đồng Văn.

Có mặt tại đây với 19 Hội Nghệ nhân dân gian đã mang đến Lễ hội những màn múa khèn độc đáo đậm chất âm hưởng dân ca. Đặc biệt, có sự tham gia biểu diễn của hàng trăm em học sinh với chủ đề “Tiếng khèn Cao nguyên”.


Khèn Mông là nhạc khí không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa, thể hiện tâm linh, tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Mông... Lễ hội càng thêm phần đặc sắc khi được chiêm ngưỡng đèn lồng lung linh phố cổ, các bức tranh vẽ sơn dầu về Cao nguyên đá Đồng Văn, được tận hưởng ẩm thực thắng cố...

Lễ hội đã thể hiện được nét đẹp văn hóa truyền thống của người dân nơi đây với những giai điệu khèn Mông nghe mà hấp dẫn lòng người.