Thứ Hai, 18 tháng 11, 2013

Hà Giang và những điểm du lịch

Nơi địa đầu của tổ quốc với nhiều cảnh núi rừng đẹp, tiếng chim hót níu lo trong những ngày hè rực nắng, cánh đồng lúa vàng đang trên ruộng bậc thang, từng bước từng bước, khung cảnh nơi đây như hòa cùng đất trời đẹp và thơ mộng.

Như một thiên đường của núi rừng, cảnh quan thiên nhiên nơi đây cũng đầy những hình ảnh đẹp khó quên. Đến với Hà Giang bạn sẽ thỏa sức ngắm nhìn những điều mới lạ, những hình ảnh như bức tranh vẽ.

Mỗi bước chân đặt lên mảnh đất Hà Giang là một nguồn cảm xúc đa sắc màu lung linh hiện hữu trước mắt bạn. Thật thích thú khi được len vào tận cùng các ngõ ngách sâu trong các bản để ngắm nhìn vẻ hoang sơ đến thuần khiết, sự trải nghiệm tuyệt vời mà chỉ có thể tìm thấy trong món quà ưu ái từ thiên nhiên…
Giờ đây, mảnh đất địa đầu Tổ quốc này không còn quá xa xôi, lạ lẫm. Đã có rất nhiều du khách trong và ngoài nước chọn nơi đây là địa điểm du lịch. Và thật là, nếu bạn có hỏi bất cứ ai đã từng đặt chân tới đây, họ đều nói: rất mong có ngày trở lại…

Dưới đây là những điểm du lịch về Hà Giang đẹp mà bạn không nên bỏ qua nhé!


1. Chợ vùng cao Đồng Văn:
Vị trí: Chợ Đồng Văn thuộc xã Đồng Văn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.
Đặc điểm: Đến đây, du khách sẽ có dịp được chiêm ngưỡng phong cảnh núi rừng trùng điệp ngút tầm mắt và tìm hiểu thêm về lối kiến trúc Việt – Hoa của ngôi chợ cổ Đồng Văn
Đến với chợ vùng cao, bạn sẽ thấy nhiều thứ khác với chợ vùng đồng bằng , bạn cũng không khó để bắt gặp những hình ảnh mua bán trao đổi khá thú vị, tôi bị ấn tượng bởi cách hoạt động của chợ, đáng nhớ và không thể quên. 


2. Bãi đá cổ Nấm Dẩn:
Vị trí: Bãi đá cổ Nấm Dẩn thuộc địa phận xã Nấm Dẩn, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang.
Đặc điểm: Nơi đây có giá trị đặc biệt về văn hoá, lịch sử, tín ngưỡng và nghiên cứu khoa học.
Bãi đá cổ như một di chứng lịch sử Có khoảng 7 phiến đá lớn và 2 cự thạch (tảng đá cực lớn) trên đó có khắc vẽ khoảng hơn 80 hình và khoảng 80 lỗ vũm


3. Lũng Cú:

Vị trí: Lũng Cú – mảnh đất địa đầu Tổ quốc, thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, cách thị xã Hà Giang khoảng 200km.
Đặc điểm: Đến đây, du khách sẽ có dịp được tận hưởng bầu không khí trong lành, tìm hiểu về những nét văn hóa truyền thống đặc sắc của một số dân tộc.
Không khí trong lành mà thiên nhiên ban tặng sẽ cho bạn cảm giác thoải mái và dễ chịu


4. Chợ tình Khau Vai:

Vị trí: Chợ tình Khau Vai thuộc xã Khau Vai, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
Đặc điểm: Đây là một phiên chợ tình độc đáo của Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung.


5. Cao nguyên Đồng Văn:
Vị trí: Cao nguyên Đồng Văn thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.
Đặc điểm: Đồng Văn có Lũng Cú được coi là “nóc nhà của Việt Nam”, nổi tiếng về phong cảnh thiên nhiên, trái ngon, dược liệu quý.


6. Dinh họ Vương:
Vị trí: Dinh họ Vương (Vương Chí Sình) nằm trên địa bàn xã Xà Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, cách huyện lỵ Đồng Văn chừng 24km.
Đặc điểm: Đây là một công trình kiến trúc đẹp, hiếm có và rất độc đáo của vùng cao nguyên này.


7. Núi đôi Quản Bạ

Vị trí: Núi đôi Quản Bạ nằm bên quốc lộ 4C, cách thị xã Hà Giang chừng 40km, thuộc địa phận huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang.
Đặc điểm: Đó là hai quả núi trông như hai trái đào tiên.

Những ngọn thác đẹp tại Bình Phước

Nước chảy xiết trên dòng thác cao, bắn lên những giọt nước mát lành, đẹp và thơ mộng, dòng thác như cuốn hút hơn bowur những tảng đá gồ ghề, tiếng chim hót trong rừng và những hàng cây xanh bên ven suối, tỏa bóng mát xuống dòng suối mát lành. Nơi đây không được biết đến như ngọn thác của Tây Nguyên, nhưng có lẽ đó là cái duyên thầm mà ngọn thác nơi đây có.

1. Dòng thác đứng:

Vẻ đẹp của dòng thác mang lại cho bạn cảm giác thích thú và kích thích nhu cầu khám phá của bản thân bạn, bởi sự đứng dốc của dòng thác. Bên trên nước chảy xiết như người con trai tuổi mới lớn, bên dưới lại nhẹ nhàng, dịu dàng và êm ái như cô trinh nữ, nước men qua từng tảng đá, thật đẹp và thú vị.

Thác cao chừng 4- 6m, rộng khoảng 10m và ẩn trong màu xanh của rừng cây. Tuy thấp nhưng dòng chảy của nước không hiền hoà mà cuồn cuộn đổ xuống từ trên cao, đập mạnh vào những tảng đá dưới chân thác làm tung lên hàng ngàn bọt nước trắng xoá. Có lẽ thấm mệt sau khi buông rơi từ trên cao, dòng nước “đổi tính” hiền hoà uốn lượn quanh hàng trăm hòn đá lớn nhỏ dọc dòng DakQuotte rợp bóng mát. Không nối tiếp thành hàng, cũng chẳng theo một trật tự nhất định, nhưng những tảng đá trên dòng DakQuotte cũng là chiếc cần đưa du khách qua bờ bên kia, chọn những gốc cây cổ thụ, dựa lưng nghỉ mệt, hàn huyên với bạn bè hay ngắm những cụm phong lan rừng đầy sức sống đong đưa trên những tán cây.


Địa điểm: Thác Đứng thuộc địa phận xã Đoàn Kết, huyện Bù Đăng, Bình Phước.

2. Thác Mơ:


Dòng thác len lỏi qua từng  tảng đá cao để chạy xuống dưới, những chiếc lá vàng rơi trên dòng thác, nhẹ trôi cùng dòng nước. Vào những mùa ít nước có những cụm cây cỏ dại mọc bên thác như điểm tô cho dòng thác làm nét chấm phá cho bức tranh thiên nhiên.

So về độ cao, độ rộng, đây là một trong những thác nước của Bình Phước có thể so sánh ngang với các thác ở Tây Nguyên. Cái hay của thác Mơ là khá gần với các địa danh nổi tiếng khác như thị trấn Thác Mơ, nhà máy Thuỷ điện, khu bảo tồn thiên nhiên Bù Gia Mập, hang bà Bảy Tuyết, núi Bà Rá. Vì vậy, ngoài việc chiêm ngưỡng, câu cá hay bơi lội trong dòng nước mát lạnh dưới chân thác, du khách có thể tham quan những dong thuyền trên hồ thác Mơ, ngắm những đảo, bè cá. Hay rong ruổi trên cáp treo lên đỉnh núi Bà Rá, thu vào tầm mắt những khu rừng bao la, những con đường ẩn hiện trong bóng mát của rừng cao su hay một góc trời bừng sắc tím với hoa bằng lăng. Tối đến, thưởng thức món cá lăng, cá chình Sông Bé với vài trái ớt hiểm, chung rượu trắng bên bếp lửa, mọi lo âu của cuộc sống như được bỏ lại phía sau.

Địa điểm: Thác Mơ thuộc Thị trấn Thác Mơ, Phước Long, Bình Phước.

3. Thác Voi:


Nghe cái tên cũng có thể đoán được phần nào nơi daay, sự hùng vĩ của dòng thác chảy từ trên cao xuống, nước bắn lên tung tóe, rơi từ độ cao xuống làm nước càng thêm hấp dẫn hơn.

Thác Voi cao khoảng 15m và rộng khoảng 8m. Vào mùa mưa, nước tuôn từ đỉnh thác tạo thành một màn trắng xoá, nổi bật giữa những cây cổ thụ cao lớn. Nhìn từ xa, trông như như một đám mây vờn sát đất. Bơi thuyền trên hồ, câu cá, ngắm những đàn cò bay về tổ trong bóng chiều nhập nhoạng, trong tiếng nước chảy róc rách là những điểm thu hút du khách của nơi đây.

Ngoài ra, khi đến với thác Voi, đừng quên ghé vào làng của người S’tiêng gần đó, tìm hiểu về phong tục, lối sống hay nghe truyền thuyết về những ngọn đồi quanh thác Voi vốn được truyền tụng là do xương và ngà của hàng ngàn con voi tạo thành. Rồi xuôi vào Trảng cỏ Bàu Lạch, ngắm những triền cỏ bao la, những hồ nước thơm ngát hương sen, nghe vi vu sáo diều.

Địa chỉ: Thác Voi thuộc Xã Đồng Nai, Bù Đăng, Bình Phước.


4. Thác số 4:


Một dòng thác nhỏ thôi, nhưng những cây xung quanh đó có lẽ cũng là những hình ảnh để cho thác đẹp hơn. Thác tuy không cao nhưng đủ sức hấp dẫn khách du lịch.

Trái với hình dung về những ngọn thác luôn hùng vĩ với dòng nước tuôn ồ ạt từ trên cao, thác số 4 gần như chỉ là một ghềnh nhỏ của dòng suối chạy xuyên thị trấn An Lộc. Song thác không “thua chị kém em” những cây cổ thụ to hơn người ôm, với những rể cây to lớn buông mình xing quanh thác Không những vậy, thác còn ấn tượng với “chiếc cầu treo” bằng rễ cây nối hai bờ, đẹp như trong câu chuyển cổ tích.

Ngoài chiêm ngưỡng thác, du lịch đến đây còn có thể nghỉ ngơi tại những dãy nhà nghỉ rợp bóng mát nghe tiếng chim hót, tiếng gió xào xạc qua kẽ hay thưởng thức những món ăn đặc trưng của vùng đất này.

Địa chỉ: Thác số 4 toạ lạc tại Thị trấn An Lộc, Long Bình - Bình Phước.


5. Thác Dakmok


Để đến được ngọn thác này, du khách phải vượt qua những đồi dốc dựng đứng, khiến người không quyết tâm sẽ dễ dàng bỏ cuộc. Song ngay khi đứng trước màn nước trắng nhấp nhô trên đá, rồi đột ngột đổ xuống từ độ chênh lệch đến 15m mềm mại như dải tóc của người thiếu nữ, đứng trước hàng trăm tảng đá với hình dáng như những con thú đang ngâm mình trong dòng nước lại cảm thấy chuyến đi không uổng phí. Điểm nổi bật tiếp theo của Dakmoc là thác không chỉ sở hữu một dòng ngọn thác duy nhất mà nhìn xa xa về phía thượng nguồn khách, sẽ thấy một dải lụa nước khác trải dài đến hơn 25m.

Chùa Trầm núi Ngũ Hành Sơn và những kiến trúc đẹp

Chùa Trầm là một quần thể mấy ngôi chùa tọa lạc trên núi Trầm (hay còn gọi là Tử Trầm Sơn), thuộc địa phận xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 25 km, xưa là làng Long Châu, tỉnh Hà Đông. Địa thế chùa rất đẹp với các núi nhỏ chung quanh như núi Ninh Sơn, Đồng Lư, Tiên Lữ.

Đây là Ngôi chùa chính xây dựa vào vách núi. Chùa tương đối nhỏ nhưng sân rộng lại có nhiều cổ thụ nên nhuốm màu trang nghiêm, thanh tịnh. Xưa kia toàn bộ khu núi Trầm là nơi vua Lê, chúa Trịnh đặt hành cung.


Một góc núi Ngũ Hành Sơn (núi Trầm).

Vào dịp lễ hội chùa Trầm, du khách về dự lên tới hàng nghìn người. Trong những ngày cuối tuần cũng có hàng trăm người đến vãn cảnh thăm chùa. Núi Trầm, Chùa Trầm là một điểm quan trọng trong du lịch Hà Nội, một địa chỉ văn hóa - lịch sử thu hút ngày càng nhiều du khách gần xa.
Từ năm 1962, khi được công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia, quần thể chùa Trầm càng được quan tâm gìn giữ.


Nghê đá...


Cây cổ thụ cũng nhiều năm tuổi, dễ và thân bám chắc lên đá, tạo nên những hình thù độc đáo.

Đến chùa Trầm, bạn sẽ được chiêm ngưỡng một quần thế kiến trúc chùa chiền mang đậm dấu ấn kiến trúc văn hóa tâm linh của đồng bằng Bắc Bộ. Một thế dựa vào núi, trước mặt lại nhìn ra hồ sen bát ngát, trên bao bọc bởi những tán cây rừng dày đặc… chả thế mà trưa tháng tám, đến chùa Trầm ngoài vẻ tôn nghiêm tĩnh mịch, du khách còn được hòa mình vào không gian mát lạnh như thể có một chiếc máy điều hòa khổng lồ đang chạy.


Bia đá trước chùa Hang ghi bài Phú của một danh nhân, học sĩ thời phong kiến.

Chùa Trầm nguyên bản có là chùa Hang. Xưa, toàn bộ khu núi Trầm là nơi vua Lê, chúa Trịnh đặt hành cung. Chùa Hang được xây dựng năm 1536 trong động Long Tiên dưới chân Tử Trầm Sơn với những pho tượng đá, văn bia khắc trên vách động, trống đá, khánh đá... Tuy nhiên về sau, năm 1893, khi Thống đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu xin danh thắng này về quản lý, đã cùng người bạn gái của mình là Nguyền Thị Thọ và chùa Bà Đá (Hà Nội) đây đưa chùa Hang lên sườn núi xây dựng lại gọi là chùa Trầm.


... và đại bàng đá trước cổng chùa là những vật linh.

Trải qua gần 400 năm với những biến dời, thay đổi, song dấu tích chùa Hang xưa vẫn còn nhiều trong Động Long Tiên với các pho tượng phật, tiên, hộ pháp… tạc bằng đá rất sinh động; những bài thơ cổ khắc trên vách đá, khánh đá, chuông đồng ...


Cảnh chùa tĩnh mịch, thoảng lại có một bà hàng nước, bán thêm bao diêm,  nén hương cho khách viếng chùa.

Đến với chùa Trầm, du khách còn được chiêm ngưỡng nhiều thắng cảnh đẹp xung quanh chùa như: đền Mẫu nằm lưng chừng núi, hang Long Tiên có đường dẫn lên đỉnh núi Trầm (tục gọi là đường lên trời), hang sâu dẫn ngầm vào trong núi (tục gọi là đường xuống âm phủ); ba ngọn tháp cổ ghi lại công đức của Thống đốc Hoàng Trọng Phu, bà Lê Thị Thọ cùng với nhiều Tăng Ni phật tử… Đặc biệt, đến chùa Trầm du khách còn được tham quan nơi chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến qua sóng Đài tiếng nói Việt Nam tại đây, năm 1947.


Chùa Trầm nằm ở sườn núi 5 ngọn.


Tháp và bia đá ghi công đức của những Tăng ni,  Phật tử có tấm lòng hảo tâm từ lúc xây dựng chùa.


Tháp thờ ghi công Thống đốc Hoàng Trọng Phu ở trên vách núi cao hơn  tháp thờ bà Nguyễn Thị Thọ và tháp ghi công đức người dân.

Tây Bắc đệ nhất động - Lai Châu

Lai Châu có 20 dân tộc, mỗi dân tộc đều có những nét riêng trong đời sống văn hoá truyền thống. Chợ phiên vùng cao là nơi biểu hiện rất rõ những nét văn hoá đặc trư­ng đó. và có một hang động đẹp nhất nhì khu vực Tây Bắc.

Để thỏa mãn tính tò mò, thích du lịch và yêu những điều tự nhiên, bạn hãy cùng ngược dòng lên Tây Bắc để thăm quan hang động được mênh danh là "Tây Bắc đệ nhất động" bởi những điều kỳ thú trong hang động mang lại cho bạn cảm giác mới lạ và hào hứng. Nghe cái tên ta cũng có thể biết được rằng nơi đó đẹp như thế nào trên vùng Tây Bắc.

1. Pu Sam điểm đến hấp dẫn vùng Tây Bắc:

Pu Sam Cáp là tên gọi một quần thể thắng cảnh tuyệt đẹp của Lai Châu, cách Thủ đô Hà Nội 500km. Thiên nhiên đã ban tặng cho nơi đây cánh rừng nguyên sinh xanh thẳm ôm lấy những thác nước hùng vĩ, những dòng suối trong mát, với số lượng động thực vật hết sức phong phú và các hang động liên hoàn với hệ thống nhũ đá và mạch nước ngầm đã trải qua hàng triệu năm kiến tạo. Pu Sam Cáp được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 2012 và là điểm đến hấp dẫn của miền Tây Bắc.

2. Vị trí địa lý:

Từ thị xã Lai Châu, theo tỉnh lộ 129 về phía cao nguyên Sìn Hồ, du khách sẽ được chiêm ngưỡng một dải núi hùng vĩ trùng điệp lượn vòng cung, ẩn hiện trong mây trời. Ðó là Pu Sam Cáp, theo tiếng Thái có nghĩa là "núi ba hang", nơi chứa đựng hàng chục hang động, suối ngầm nằm ở độ cao khoảng 1.700 m so với mực nước biển.

3. Truyền thuyết về động Pu Sam:
 Không biết từ bao giờ, người dân địa phương đã truyền nhau sự tích về động Pu Sam Cáp thật đẹp và cảm động: Xưa có cô gái đẹp là con của chúa bản, nàng đem lòng yêu một chàng trai tốt bụng nhưng nhà nghèo. Bị cha ép gả cho kẻ quyền quý, nàng đã bỏ trốn theo tiếng gọi của tình yêu. Chúa bản bắt nàng nhốt vào hang, sai người lấp hang lại. Pỏ Chạ (tức ông trời) thương cảm đã ban phép màu mở cửa hang, ban cho nhà cửa, ruộng vườn, trang trí hang nguy nga, lộng lẫy. Nhưng rồi khi bị phát hiện, cả hang đã hóa đá, cả cô gái và đứa con của nàng. Cha mẹ và người yêu nàng hối hận, ôm lấy tượng đá mà khóc, nước mắt họ chảy thành suối róc rách đêm ngày...


 4. Vài nét về động Pu Sa:
Một hàng động tự nhiên lỳ vĩ năm trên đất  Tây Bắc yêu thương, sẽ không thể dễ dàng quên đi được hình ảnh của hang động này, nó sẽ còn in hằn trong trái tim ta. Ðến thăm các hang động này, du khách sẽ bị cuốn hút bởi muôn vàn cảnh sắc vừa thơ mộng, quyến rũ, vừa huyền ảo và tráng lệ. Ngay từ những bước chân đầu tiên dưới chân núi, khung cảnh rừng nguyên sinh với những tán cổ thụ xòe rộng bám đầy phong lan và tầm gửi, rễ cây chằng chịt, những loài hoa rừng, cỏ lạ đã mời gọi sự tò mò khám phá. Theo con đường mòn đi lên vài trăm mét, du khách sẽ bước qua một cửa vòm lớn để tham quan động Thiên Môn có vô số những "tác phẩm nghệ thuật" của thiên nhiên được dựng lên từ đá và trên đá. Nào ruộng bậc thang, rừng cây, dòng sông, nào hoa lá, chim muông... tất cả hiện lên sống động, giống như một mô hình thu nhỏ của núi rừng Tây Bắc. Tầng tầng, lớp lớp nhũ đá rủ xuống từ vòm hang và "mọc" lên từ nền đất, với bao sắc mầu óng ánh, từ trong suốt đến trắng ngà, xanh mướt, tím đỏ... Trong không gian tĩnh lặng, mát rượi ấy, ta cảm nhận được tiếng gió khẽ thì thầm, tiếng tí tách của những giọt nước tinh khiết ngày đêm chảy từ những khối đá khổng lồ. Càng vào sâu bên trong, hình thù của nhũ đá và những hình ảnh trên vách hang càng biến đổi kỳ thú, gợi nên vô số liên tưởng ở mỗi người. Cùng với hệ thống bậc thang thiên tạo có sẵn, Ban quản lý di tích đã bố trí thêm thang và những cuộn dây để giúp du khách di chuyển thuận lợi, an toàn. Ðèn chiếu sáng cũng được ban quản lý hang lắp đầy đủ và không quá mầu mè, để có thể mang lại đủ ánh sáng mà vẫn tôn lên vẻ đẹp tự nhiên huyền ảo của các nhũ đá, cột đá. 

5. Ghé thăm động Thiên Đường:
Ðộng Thiên Ðường, cái tên phần nào nói lên vẻ đẹp của nó, lộng lẫy với những cảnh non xanh, nước biếc bốn bề, cảnh tiên nữ đang nhảy múa giữa những đám mây bồng bềnh, cảnh giã gạo, múa xòe rộn rã của con người trần gian... Trong lòng động chứa những cột nhũ như những cột thủy tinh cao sừng sững với hoa văn tinh xảo, uốn lượn, xếp quanh một hồ nước nhỏ trong vắt như gương. Trên đường đi, có những tảng đá rộng và bằng phẳng để du khách nghỉ chân, ngắm ánh mặt trời trên cao chiếu xuyên qua tán lá rừng và qua những kẽ đá xuống lòng hang, lung linh như nhảy múa. Sau khi "đã mắt" với cảnh núi đồi, du khách lại như được đưa về miền biển cả xa xôi bao la với những dải "sóng đá" nhấp nhô trải dài từ dưới chân thềm hang lên tận lưng chừng hang, đây đó có cả những phiến đá uốn cong tựa hình sóng biển, với cơ man nào là cá, tôm, ngọc trai. Dường như mỗi vùng, miền, mỗi khu vực đều có sản vật đại diện. Những hình hài đa dạng vừa lạ, vừa quen, kích thích trí tưởng tượng phong phú của du khách, với những bức tượng Phật, Bụt đá, những nàng tiên đá, những người lính gác cổng, những con rồng, kỳ lân, sư tử... đứng trang nghiêm, vững chãi. Chính giữa động Thiên Ðường là một không gian cực kỳ rộng rãi với vòm hang cao vút và nền đất bằng phẳng, tựa như một "nhà hát của thiên nhiên" vậy.

6: Tiếp đến là động Thủy Tinh:
nổi bật với một vòm nhũ đá dày đặc và một khối đá được ví như hình ngai vàng và lọng vàng của vua chúa xưa, tọa lạc sừng sững uy nghi trên điểm cao nhất. Nếu đi sâu hơn nữa, du khách sẽ phát hiện ra những nhũ đá rất tự nhiên và vô tình đã chia hang thành nhiều ô nhỏ, diện tích chỉ 5-7 m2, giống như những căn phòng riêng. Từ các cửa hang, du khách cũng có thể đi tiếp theo các lối mòn để lên trên cao, ra phía ngoài động, nơi có những cánh rừng móc thuần chủng quanh năm sương phủ. Nếu có sức khỏe, hãy dành chút thời gian đóng vai nhà thám hiểm, băng qua quãng rừng rậm rạp và triền dốc gập ghềnh, để lên đến đỉnh núi. Tại đây, người thưởng ngoạn sẽ có cảm giác thăng hoa như lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh, thưởng thức bản giao hưởng của chim chóc, ngắm nhìn cảnh vật ẩn hiện trong sương mờ. Và hơn thế nữa, du khách có thể tự do phóng tầm mắt xuống các thung lũng, bình nguyên chung quanh. Xa xa là thị xã Lai Châu, một thị xã trẻ đang từng ngày thay da, đổi thịt, vươn lên thành một đô thị vùng cao hiện đại, năng động. Bên cạnh đó là khung cảnh êm ả, thanh bình của các bản làng dân tộc thiểu số thấp thoáng xen giữa những nương ngô, ruộng bậc thang đặc trưng của núi rừng Tây Bắc.

Nằm trong chiến lược phát triển du lịch của tỉnh Lai Châu, quần thể di tích động Pu Sam Cáp gắn với mô hình du lịch sinh thái, mạo hiểm và du lịch văn hóa - nhân văn. Ðược thiên nhiên ưu đãi cảnh quan tươi đẹp, nhiều sản vật quý giá, cùng với những đặc sản từ con người như văn hóa bản làng, ẩm thực, âm nhạc dân gian, nghề truyền thống..., Pu Sam Cáp đã và đang thu hút hàng chục nghìn lượt khách du lịch mỗi năm, xứng danh kỳ quan "Tây Bắc đệ nhất động". Cùng với lòng hiếu khách của đồng bào các dân tộc, chén rượu nồng được trao từ đôi tay các thiếu nữ Mông, Dao, Thái, Giáy... như muốn giữ chân những người bạn trong tình đoàn kết hữu nghị. Và khi ra về, núi rừng Pu Sam Cáp lại reo lên những bản nhạc của gió mây, của nước, của chim muông như lời chúc an lành và hẹn ngày gặp lại.

Biểu tượng nền giáo dục nước nhà là hình ảnh Văn Miếu

Dưới triều nhà Nguyễn, Văn Miếu của cả triều đại và cũng là của toàn quốc được chính thức xây dựng vào năm 1808 dưới triều vua Gia Long. Miếu được xây dựng uy nghi đồ sộ, nằm bên bờ sông Hương, thuộc địa phận thôn An Bình, làng An Ninh, phía Tây Kinh thành Huế. Văn Miếu Huế hay Văn Thánh Huế là cách gọi tắt của Văn Thánh Miếu được xây dựng tại Huế.

1. Lịch sử  văn miếu Huế:
Bề dày lịch sử phát triển của Văn Miếu Huế, đã trải qua nhiều thăng trầm
Chúng ta hãy điểm qua lịch sử bắt đầu của Văn Miếu Huế. Khi bắt đầu khai phá vùng đất mới do chưa có điều kiện ổn định về kinh tế cũng như xã hội nên Văn Miếu được xây dựng đơn giản tại làng Triều Sơn ở Phú Xuân nhưng không rõ năm xây dựng, và đây được xem là Văn Miếu riêng của vùng đất mới. Đến năm 1770 đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát thì được dời đến xã Long Hồ.

Việc xây dựng Văn Miếu được tiến hành từ ngày 17 tháng 4 đến ngày 18 tháng 9 năm 1808, vua Gia Long ra lệnh làm các đồ tự khí mới để thờ, thay thế các đồ cũ và tượng thánh hiền được thay bằng bài vị.
Trải qua dâu bể của thời gian, khi mà Nguyễn Ánh lên ngôi và thống nhất đất nước, bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước và chỉnh đốn lại nền giáo dục của nước nhà, năm 1808 Văn Miếu được Vua Gia Long xây dựng lại và cho chế tác đồ thờ tự mới để thờ Khổng Tử cùng các học trò.
Văn Thánh trong ca dao:
"Văn Thánh trồng thông, Võ Thánh trồng bàng
Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù u"
2. Địa chỉ:
Văn Miếu Huế hiện nay thuộc địa phận thôn An Bình, làng An Ninh, phía Tây Kinh thành Huế cách chùa Thiên Mụ không xa. Phía trước là dòng Hương Giang thơ mộng, có bến đò nhỏ cùng Linh Tinh Môn, nhưng chiếc cổng này hiện giờ chỉ còn những chiếc cột, nó đã bị thời gian cũng như chiến tranh phá huỷ.


Đối diện với Tinh Linh môn là Văn Miếu môn theo kiểu tam quan phía trên có gác, lợp ngói hoàng lưu ly, qua cổng bên trái có Hữu Văn Đường; bên phải xây Duy Lễ Đường là 2 ngôi nhà một gian 2 chái dùng để cho vua quan nghỉ ngơi để chuẫn bị cho việc tế lễ ở chính miếu phía trong.


Tiếp đến là Đại Thành môn là một tam quan xây bằng gạch, bên trong là một sân rộng, hai bên sân là hai hàng bia ghi danh các tiến sĩ trong các khoa thi. Nguyên trong suốt thời Gia Long, ông chỉ cho mở các khoa thi hương nên chưa có các tấm bia này, cho đến khi Vua Minh Mạng lên ngôi và bắt đầu cho thi hội và bắt đầu được dựng từ năm 1831 đến năm 1919.


Qua khỏi sân là Đại Thành điện, nơi thờ Khổng Tử và các học trò, đây là một kiến trúc đồ sộ dài 32m và rộng 25m xây theo lối trùng thềm điệp ốc, tất cả những án thờ trong điện thay vì là các bức tượng như truyền thống thì theo lệnh Vua Gia Long đều được thay bằng bài vị gỗ.


Phía trước hai bên điện có 2 nhà phối là Đông Vu và Tây Vu cùng với 2 ngôi nhà bia, bên phải có tấm bia khắc bài văn bia ”Thánh Tổ Nhân Hoàng đế dụ: Cung giám bất đắc liệt tấn thân” (vua Minh Mạng dụ về việc Thái giám không được liệt vào hạng quan lại); bia ở nhà bia bên trái khắc bài văn bia “Hiến Tổ Chương Hoàng đế dụ: Ngoại thích bất đắc thân chính” (vua Thiệu Trị dụ về việc bà con bên ngoại của vua không được tham gia chính quyền).

Hiện nay hầu như tất cả những công trình chính ở Văn Miếu chỉ còn là phế tích, chỉ còn hàng bia cùng với Văn Miếu môn và Đại Thành môn. Hầu hết đã bị mất đi dấu vết của ngày xưa, nhưng những gì còn lại sẽ là di tích được gìn giữ và bảo tồn. 

khám phá Cát Bà - vẻ yên tĩnh tự nhiên

Khi hoàng hôn buông xuống, cảnh đẹp của cát Bà càng được tăng lên bởi cả cái thị trấn nhỏ nằm hướng mặt ra biển, hình ảnh những chiếc tàu lớn, nhỏ còn đang lênh đên trên biển, thị trấn thì yên bình trong cái không khí chiều tà này. Cùng khám phá Cát Bà về vẻ yên tĩnh tự nhiên.

Cát Bà:
Cát Bà là quần thể gồm 367 đảo trong đó có đảo Cát Bà ở phía Nam vịnh Hạ Long, ngoài khơi thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 30 km, cách thành phố Hạ Long khoảng 25 km. Về mặt hành chính, quần đảo thuộc huyện đảo Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Nơi đây đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Cơ sở hạ tầng cũng khá phát triển với tổ hợp nhiều khách sạn, nhà nghỉ, khu nghỉ dưỡng, chùa chiền và đặc biệt là toàn bộ khu vực đảo đã được thành phố Hải Phòng triển khai các trạm thu phát wifi.


Lịch sử hình thành:
Tương truyền xưa kia tên đảo là Các Bà, là hậu phương cho Các Ông theo Thánh Gióng đánh giặc Ân. Ở thị trấn Cát Bà hiện nay có đền Các Bà. Các bản đồ hành chính thời Pháp thuộc (như bản đồ năm 1938) còn ghi là Các Bà. Như vậy có lẽ tên gọi Các Bà đã bị đọc trệch thành Cát Bà.

Trước đây đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Bà, năm 1977 mới sáp nhập với huyện Cát Hải thành huyện Cát Hải mới. Trước đây đảo thuộc tỉnh Quảng Yên, sau thuộc khu Hồng Quảng, đến năm 1956 mới chuyển về thành phố Hải Phòng.

Địa chỉ:
Thị trấn Cát Bà hiện nay là huyện lị huyện Cát Hải. Trước năm 1945, thị trấn Cát Bà là phố Cát Bà, rồi đại lý Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, tỉnh Quảng Yên. Sau năm 1945, trở thành thị xã Cát Bà. Đến năm 1957 thị xã Cát Bà đổi thành thị trấn và huyện Cát Bà mới thành lập.

Lợi thế của Cát Bà:
Là một trong những điểm nhấn của du lịch vùng Đông Bắc, Cát Bà có những nét riêng so với các điểm du lịch khác. Một trong những nét riêng đó là những bãi cát nhỏ nằm rải rác giữa các ngọn núi, nước biển trong xanh, tạo thành những bãi tắm rất đẹp. Sắc xanh của núi đá, cây rừng và màu cẩm thạch của biển đã tạo cho Cát Bà một bản hòa sắc rực rỡ giữa đất trời với hàng trăm dáng núi kỳ vĩ và những hang động huyền bí. Nhiều vịnh biển nằm sâu trong lòng đảo với những dải cát nhỏ mịn màng, nước trong như ngọc tạo cho quần thể san hô thêm lung linh ngàn sắc. Những con suối len lỏi sâu trong rừng ngày đêm róc rách tạo nên những bản hợp xướng, những hang động xuyên núi hay luồn trong từng vách đá là đặc trưng ở nơi đây.


Lượng sinh quyển nơi đây được UNESCO công nhận:
Cát Bà là một cụm du lịch thiên nhiên, sinh thái; nơi đây vừa có rừng, vừa có biển với nguồn tài nguyên phong phú, cảnh quan đẹp và nhiều loại động thực vật quí hiếm. Vì thế, đối với những du khách ưa mạo hiểm thì Vườn quốc gia Cát Bà là một điểm du lịch hấp dẫn, đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.

Vườn có 4.500 hecta rừng nguyên sinh, có hệ thực vật thường xen lẫn rừng cây lá rộng, cây lá kim và rừng kín lá rộng phát triển trên núi đá vôi. Và nhiều loại động vật, thực vật quý hiếm nên đây là nơi bảo tồn nguồn gen đa dạng. Vườn quốc gia Cát Bà có tới 22 loài động vật được ghi trong Sách đỏ Việt Nam và 6 loài được ghi trong Sách đỏ Thế giới, trong đó có voọc đầu trắng, loài động vật đặc hữu và quý hiếm của Cát Bà.


Vẻ đẹp Cát Bà:
Đối với những du khách thích khám phá cảnh đẹp thiên nhiên, thì việc viếng thăm hang động Trung Trang với những nhũ đá thiên nhiên kì bí đẹp mê hồn hay vào động Hùng Sơn chứa cả một “bệnh viện” trong chiến tranh và hiểu thêm về những chiến công, lòng dũng cảm của nhân dân Cát Bà trong cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ hay thuê một chiếc thuyền du lịch ra vịnh Lan Hạ quả là một hành trình thú vị. Vịnh Lan Hạ đẹp như một bức tranh thủy mặc, được chấm phá bởi những đường cong uốn lượn đủ muôn hình.

Nếu muốn thả mình trong làn nước trong xanh để quên hết những âu lo, muộn phiền thì hòa mình trong những dòng người đông nghịt trên các bãi tắm như Cát Cò, Cát Tiên, Cát Ông… Biển ở đây trong xanh, đẹp đến mê hồn, những bãi cát trắng mịn màng trải dài nhưng đầy kín đáo yên tĩnh. Du khách có thể tắm, chơi đùa trên cát hay phơi mình đón hoàng hôn, ngắm mặt trời lặn.

Đêm… Cát Bà trở về với sự êm đềm của nó, thị trấn im lìm bên những dải núi, phố vắng tanh, những hàng cây xao xác, những con thuyền neo đậu bến bình yên... Và lòng người cũng “mênh mang” đến lại. Sự yên tĩnh của nơi đây làm cho những con tim du khách phải thả hồn cùng không gian để quên đi những tháng ngày mệt mỏi và vất vả đẻ mưu sinh với cuộc sống. Bình yên lắm Cát Bà!