Thứ Hai, 18 tháng 11, 2013

Chùa Trầm núi Ngũ Hành Sơn và những kiến trúc đẹp

Chùa Trầm là một quần thể mấy ngôi chùa tọa lạc trên núi Trầm (hay còn gọi là Tử Trầm Sơn), thuộc địa phận xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 25 km, xưa là làng Long Châu, tỉnh Hà Đông. Địa thế chùa rất đẹp với các núi nhỏ chung quanh như núi Ninh Sơn, Đồng Lư, Tiên Lữ.

Đây là Ngôi chùa chính xây dựa vào vách núi. Chùa tương đối nhỏ nhưng sân rộng lại có nhiều cổ thụ nên nhuốm màu trang nghiêm, thanh tịnh. Xưa kia toàn bộ khu núi Trầm là nơi vua Lê, chúa Trịnh đặt hành cung.


Một góc núi Ngũ Hành Sơn (núi Trầm).

Vào dịp lễ hội chùa Trầm, du khách về dự lên tới hàng nghìn người. Trong những ngày cuối tuần cũng có hàng trăm người đến vãn cảnh thăm chùa. Núi Trầm, Chùa Trầm là một điểm quan trọng trong du lịch Hà Nội, một địa chỉ văn hóa - lịch sử thu hút ngày càng nhiều du khách gần xa.
Từ năm 1962, khi được công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia, quần thể chùa Trầm càng được quan tâm gìn giữ.


Nghê đá...


Cây cổ thụ cũng nhiều năm tuổi, dễ và thân bám chắc lên đá, tạo nên những hình thù độc đáo.

Đến chùa Trầm, bạn sẽ được chiêm ngưỡng một quần thế kiến trúc chùa chiền mang đậm dấu ấn kiến trúc văn hóa tâm linh của đồng bằng Bắc Bộ. Một thế dựa vào núi, trước mặt lại nhìn ra hồ sen bát ngát, trên bao bọc bởi những tán cây rừng dày đặc… chả thế mà trưa tháng tám, đến chùa Trầm ngoài vẻ tôn nghiêm tĩnh mịch, du khách còn được hòa mình vào không gian mát lạnh như thể có một chiếc máy điều hòa khổng lồ đang chạy.


Bia đá trước chùa Hang ghi bài Phú của một danh nhân, học sĩ thời phong kiến.

Chùa Trầm nguyên bản có là chùa Hang. Xưa, toàn bộ khu núi Trầm là nơi vua Lê, chúa Trịnh đặt hành cung. Chùa Hang được xây dựng năm 1536 trong động Long Tiên dưới chân Tử Trầm Sơn với những pho tượng đá, văn bia khắc trên vách động, trống đá, khánh đá... Tuy nhiên về sau, năm 1893, khi Thống đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu xin danh thắng này về quản lý, đã cùng người bạn gái của mình là Nguyền Thị Thọ và chùa Bà Đá (Hà Nội) đây đưa chùa Hang lên sườn núi xây dựng lại gọi là chùa Trầm.


... và đại bàng đá trước cổng chùa là những vật linh.

Trải qua gần 400 năm với những biến dời, thay đổi, song dấu tích chùa Hang xưa vẫn còn nhiều trong Động Long Tiên với các pho tượng phật, tiên, hộ pháp… tạc bằng đá rất sinh động; những bài thơ cổ khắc trên vách đá, khánh đá, chuông đồng ...


Cảnh chùa tĩnh mịch, thoảng lại có một bà hàng nước, bán thêm bao diêm,  nén hương cho khách viếng chùa.

Đến với chùa Trầm, du khách còn được chiêm ngưỡng nhiều thắng cảnh đẹp xung quanh chùa như: đền Mẫu nằm lưng chừng núi, hang Long Tiên có đường dẫn lên đỉnh núi Trầm (tục gọi là đường lên trời), hang sâu dẫn ngầm vào trong núi (tục gọi là đường xuống âm phủ); ba ngọn tháp cổ ghi lại công đức của Thống đốc Hoàng Trọng Phu, bà Lê Thị Thọ cùng với nhiều Tăng Ni phật tử… Đặc biệt, đến chùa Trầm du khách còn được tham quan nơi chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến qua sóng Đài tiếng nói Việt Nam tại đây, năm 1947.


Chùa Trầm nằm ở sườn núi 5 ngọn.


Tháp và bia đá ghi công đức của những Tăng ni,  Phật tử có tấm lòng hảo tâm từ lúc xây dựng chùa.


Tháp thờ ghi công Thống đốc Hoàng Trọng Phu ở trên vách núi cao hơn  tháp thờ bà Nguyễn Thị Thọ và tháp ghi công đức người dân.

Tây Bắc đệ nhất động - Lai Châu

Lai Châu có 20 dân tộc, mỗi dân tộc đều có những nét riêng trong đời sống văn hoá truyền thống. Chợ phiên vùng cao là nơi biểu hiện rất rõ những nét văn hoá đặc trư­ng đó. và có một hang động đẹp nhất nhì khu vực Tây Bắc.

Để thỏa mãn tính tò mò, thích du lịch và yêu những điều tự nhiên, bạn hãy cùng ngược dòng lên Tây Bắc để thăm quan hang động được mênh danh là "Tây Bắc đệ nhất động" bởi những điều kỳ thú trong hang động mang lại cho bạn cảm giác mới lạ và hào hứng. Nghe cái tên ta cũng có thể biết được rằng nơi đó đẹp như thế nào trên vùng Tây Bắc.

1. Pu Sam điểm đến hấp dẫn vùng Tây Bắc:

Pu Sam Cáp là tên gọi một quần thể thắng cảnh tuyệt đẹp của Lai Châu, cách Thủ đô Hà Nội 500km. Thiên nhiên đã ban tặng cho nơi đây cánh rừng nguyên sinh xanh thẳm ôm lấy những thác nước hùng vĩ, những dòng suối trong mát, với số lượng động thực vật hết sức phong phú và các hang động liên hoàn với hệ thống nhũ đá và mạch nước ngầm đã trải qua hàng triệu năm kiến tạo. Pu Sam Cáp được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 2012 và là điểm đến hấp dẫn của miền Tây Bắc.

2. Vị trí địa lý:

Từ thị xã Lai Châu, theo tỉnh lộ 129 về phía cao nguyên Sìn Hồ, du khách sẽ được chiêm ngưỡng một dải núi hùng vĩ trùng điệp lượn vòng cung, ẩn hiện trong mây trời. Ðó là Pu Sam Cáp, theo tiếng Thái có nghĩa là "núi ba hang", nơi chứa đựng hàng chục hang động, suối ngầm nằm ở độ cao khoảng 1.700 m so với mực nước biển.

3. Truyền thuyết về động Pu Sam:
 Không biết từ bao giờ, người dân địa phương đã truyền nhau sự tích về động Pu Sam Cáp thật đẹp và cảm động: Xưa có cô gái đẹp là con của chúa bản, nàng đem lòng yêu một chàng trai tốt bụng nhưng nhà nghèo. Bị cha ép gả cho kẻ quyền quý, nàng đã bỏ trốn theo tiếng gọi của tình yêu. Chúa bản bắt nàng nhốt vào hang, sai người lấp hang lại. Pỏ Chạ (tức ông trời) thương cảm đã ban phép màu mở cửa hang, ban cho nhà cửa, ruộng vườn, trang trí hang nguy nga, lộng lẫy. Nhưng rồi khi bị phát hiện, cả hang đã hóa đá, cả cô gái và đứa con của nàng. Cha mẹ và người yêu nàng hối hận, ôm lấy tượng đá mà khóc, nước mắt họ chảy thành suối róc rách đêm ngày...


 4. Vài nét về động Pu Sa:
Một hàng động tự nhiên lỳ vĩ năm trên đất  Tây Bắc yêu thương, sẽ không thể dễ dàng quên đi được hình ảnh của hang động này, nó sẽ còn in hằn trong trái tim ta. Ðến thăm các hang động này, du khách sẽ bị cuốn hút bởi muôn vàn cảnh sắc vừa thơ mộng, quyến rũ, vừa huyền ảo và tráng lệ. Ngay từ những bước chân đầu tiên dưới chân núi, khung cảnh rừng nguyên sinh với những tán cổ thụ xòe rộng bám đầy phong lan và tầm gửi, rễ cây chằng chịt, những loài hoa rừng, cỏ lạ đã mời gọi sự tò mò khám phá. Theo con đường mòn đi lên vài trăm mét, du khách sẽ bước qua một cửa vòm lớn để tham quan động Thiên Môn có vô số những "tác phẩm nghệ thuật" của thiên nhiên được dựng lên từ đá và trên đá. Nào ruộng bậc thang, rừng cây, dòng sông, nào hoa lá, chim muông... tất cả hiện lên sống động, giống như một mô hình thu nhỏ của núi rừng Tây Bắc. Tầng tầng, lớp lớp nhũ đá rủ xuống từ vòm hang và "mọc" lên từ nền đất, với bao sắc mầu óng ánh, từ trong suốt đến trắng ngà, xanh mướt, tím đỏ... Trong không gian tĩnh lặng, mát rượi ấy, ta cảm nhận được tiếng gió khẽ thì thầm, tiếng tí tách của những giọt nước tinh khiết ngày đêm chảy từ những khối đá khổng lồ. Càng vào sâu bên trong, hình thù của nhũ đá và những hình ảnh trên vách hang càng biến đổi kỳ thú, gợi nên vô số liên tưởng ở mỗi người. Cùng với hệ thống bậc thang thiên tạo có sẵn, Ban quản lý di tích đã bố trí thêm thang và những cuộn dây để giúp du khách di chuyển thuận lợi, an toàn. Ðèn chiếu sáng cũng được ban quản lý hang lắp đầy đủ và không quá mầu mè, để có thể mang lại đủ ánh sáng mà vẫn tôn lên vẻ đẹp tự nhiên huyền ảo của các nhũ đá, cột đá. 

5. Ghé thăm động Thiên Đường:
Ðộng Thiên Ðường, cái tên phần nào nói lên vẻ đẹp của nó, lộng lẫy với những cảnh non xanh, nước biếc bốn bề, cảnh tiên nữ đang nhảy múa giữa những đám mây bồng bềnh, cảnh giã gạo, múa xòe rộn rã của con người trần gian... Trong lòng động chứa những cột nhũ như những cột thủy tinh cao sừng sững với hoa văn tinh xảo, uốn lượn, xếp quanh một hồ nước nhỏ trong vắt như gương. Trên đường đi, có những tảng đá rộng và bằng phẳng để du khách nghỉ chân, ngắm ánh mặt trời trên cao chiếu xuyên qua tán lá rừng và qua những kẽ đá xuống lòng hang, lung linh như nhảy múa. Sau khi "đã mắt" với cảnh núi đồi, du khách lại như được đưa về miền biển cả xa xôi bao la với những dải "sóng đá" nhấp nhô trải dài từ dưới chân thềm hang lên tận lưng chừng hang, đây đó có cả những phiến đá uốn cong tựa hình sóng biển, với cơ man nào là cá, tôm, ngọc trai. Dường như mỗi vùng, miền, mỗi khu vực đều có sản vật đại diện. Những hình hài đa dạng vừa lạ, vừa quen, kích thích trí tưởng tượng phong phú của du khách, với những bức tượng Phật, Bụt đá, những nàng tiên đá, những người lính gác cổng, những con rồng, kỳ lân, sư tử... đứng trang nghiêm, vững chãi. Chính giữa động Thiên Ðường là một không gian cực kỳ rộng rãi với vòm hang cao vút và nền đất bằng phẳng, tựa như một "nhà hát của thiên nhiên" vậy.

6: Tiếp đến là động Thủy Tinh:
nổi bật với một vòm nhũ đá dày đặc và một khối đá được ví như hình ngai vàng và lọng vàng của vua chúa xưa, tọa lạc sừng sững uy nghi trên điểm cao nhất. Nếu đi sâu hơn nữa, du khách sẽ phát hiện ra những nhũ đá rất tự nhiên và vô tình đã chia hang thành nhiều ô nhỏ, diện tích chỉ 5-7 m2, giống như những căn phòng riêng. Từ các cửa hang, du khách cũng có thể đi tiếp theo các lối mòn để lên trên cao, ra phía ngoài động, nơi có những cánh rừng móc thuần chủng quanh năm sương phủ. Nếu có sức khỏe, hãy dành chút thời gian đóng vai nhà thám hiểm, băng qua quãng rừng rậm rạp và triền dốc gập ghềnh, để lên đến đỉnh núi. Tại đây, người thưởng ngoạn sẽ có cảm giác thăng hoa như lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh, thưởng thức bản giao hưởng của chim chóc, ngắm nhìn cảnh vật ẩn hiện trong sương mờ. Và hơn thế nữa, du khách có thể tự do phóng tầm mắt xuống các thung lũng, bình nguyên chung quanh. Xa xa là thị xã Lai Châu, một thị xã trẻ đang từng ngày thay da, đổi thịt, vươn lên thành một đô thị vùng cao hiện đại, năng động. Bên cạnh đó là khung cảnh êm ả, thanh bình của các bản làng dân tộc thiểu số thấp thoáng xen giữa những nương ngô, ruộng bậc thang đặc trưng của núi rừng Tây Bắc.

Nằm trong chiến lược phát triển du lịch của tỉnh Lai Châu, quần thể di tích động Pu Sam Cáp gắn với mô hình du lịch sinh thái, mạo hiểm và du lịch văn hóa - nhân văn. Ðược thiên nhiên ưu đãi cảnh quan tươi đẹp, nhiều sản vật quý giá, cùng với những đặc sản từ con người như văn hóa bản làng, ẩm thực, âm nhạc dân gian, nghề truyền thống..., Pu Sam Cáp đã và đang thu hút hàng chục nghìn lượt khách du lịch mỗi năm, xứng danh kỳ quan "Tây Bắc đệ nhất động". Cùng với lòng hiếu khách của đồng bào các dân tộc, chén rượu nồng được trao từ đôi tay các thiếu nữ Mông, Dao, Thái, Giáy... như muốn giữ chân những người bạn trong tình đoàn kết hữu nghị. Và khi ra về, núi rừng Pu Sam Cáp lại reo lên những bản nhạc của gió mây, của nước, của chim muông như lời chúc an lành và hẹn ngày gặp lại.

Biểu tượng nền giáo dục nước nhà là hình ảnh Văn Miếu

Dưới triều nhà Nguyễn, Văn Miếu của cả triều đại và cũng là của toàn quốc được chính thức xây dựng vào năm 1808 dưới triều vua Gia Long. Miếu được xây dựng uy nghi đồ sộ, nằm bên bờ sông Hương, thuộc địa phận thôn An Bình, làng An Ninh, phía Tây Kinh thành Huế. Văn Miếu Huế hay Văn Thánh Huế là cách gọi tắt của Văn Thánh Miếu được xây dựng tại Huế.

1. Lịch sử  văn miếu Huế:
Bề dày lịch sử phát triển của Văn Miếu Huế, đã trải qua nhiều thăng trầm
Chúng ta hãy điểm qua lịch sử bắt đầu của Văn Miếu Huế. Khi bắt đầu khai phá vùng đất mới do chưa có điều kiện ổn định về kinh tế cũng như xã hội nên Văn Miếu được xây dựng đơn giản tại làng Triều Sơn ở Phú Xuân nhưng không rõ năm xây dựng, và đây được xem là Văn Miếu riêng của vùng đất mới. Đến năm 1770 đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát thì được dời đến xã Long Hồ.

Việc xây dựng Văn Miếu được tiến hành từ ngày 17 tháng 4 đến ngày 18 tháng 9 năm 1808, vua Gia Long ra lệnh làm các đồ tự khí mới để thờ, thay thế các đồ cũ và tượng thánh hiền được thay bằng bài vị.
Trải qua dâu bể của thời gian, khi mà Nguyễn Ánh lên ngôi và thống nhất đất nước, bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước và chỉnh đốn lại nền giáo dục của nước nhà, năm 1808 Văn Miếu được Vua Gia Long xây dựng lại và cho chế tác đồ thờ tự mới để thờ Khổng Tử cùng các học trò.
Văn Thánh trong ca dao:
"Văn Thánh trồng thông, Võ Thánh trồng bàng
Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù u"
2. Địa chỉ:
Văn Miếu Huế hiện nay thuộc địa phận thôn An Bình, làng An Ninh, phía Tây Kinh thành Huế cách chùa Thiên Mụ không xa. Phía trước là dòng Hương Giang thơ mộng, có bến đò nhỏ cùng Linh Tinh Môn, nhưng chiếc cổng này hiện giờ chỉ còn những chiếc cột, nó đã bị thời gian cũng như chiến tranh phá huỷ.


Đối diện với Tinh Linh môn là Văn Miếu môn theo kiểu tam quan phía trên có gác, lợp ngói hoàng lưu ly, qua cổng bên trái có Hữu Văn Đường; bên phải xây Duy Lễ Đường là 2 ngôi nhà một gian 2 chái dùng để cho vua quan nghỉ ngơi để chuẫn bị cho việc tế lễ ở chính miếu phía trong.


Tiếp đến là Đại Thành môn là một tam quan xây bằng gạch, bên trong là một sân rộng, hai bên sân là hai hàng bia ghi danh các tiến sĩ trong các khoa thi. Nguyên trong suốt thời Gia Long, ông chỉ cho mở các khoa thi hương nên chưa có các tấm bia này, cho đến khi Vua Minh Mạng lên ngôi và bắt đầu cho thi hội và bắt đầu được dựng từ năm 1831 đến năm 1919.


Qua khỏi sân là Đại Thành điện, nơi thờ Khổng Tử và các học trò, đây là một kiến trúc đồ sộ dài 32m và rộng 25m xây theo lối trùng thềm điệp ốc, tất cả những án thờ trong điện thay vì là các bức tượng như truyền thống thì theo lệnh Vua Gia Long đều được thay bằng bài vị gỗ.


Phía trước hai bên điện có 2 nhà phối là Đông Vu và Tây Vu cùng với 2 ngôi nhà bia, bên phải có tấm bia khắc bài văn bia ”Thánh Tổ Nhân Hoàng đế dụ: Cung giám bất đắc liệt tấn thân” (vua Minh Mạng dụ về việc Thái giám không được liệt vào hạng quan lại); bia ở nhà bia bên trái khắc bài văn bia “Hiến Tổ Chương Hoàng đế dụ: Ngoại thích bất đắc thân chính” (vua Thiệu Trị dụ về việc bà con bên ngoại của vua không được tham gia chính quyền).

Hiện nay hầu như tất cả những công trình chính ở Văn Miếu chỉ còn là phế tích, chỉ còn hàng bia cùng với Văn Miếu môn và Đại Thành môn. Hầu hết đã bị mất đi dấu vết của ngày xưa, nhưng những gì còn lại sẽ là di tích được gìn giữ và bảo tồn. 

khám phá Cát Bà - vẻ yên tĩnh tự nhiên

Khi hoàng hôn buông xuống, cảnh đẹp của cát Bà càng được tăng lên bởi cả cái thị trấn nhỏ nằm hướng mặt ra biển, hình ảnh những chiếc tàu lớn, nhỏ còn đang lênh đên trên biển, thị trấn thì yên bình trong cái không khí chiều tà này. Cùng khám phá Cát Bà về vẻ yên tĩnh tự nhiên.

Cát Bà:
Cát Bà là quần thể gồm 367 đảo trong đó có đảo Cát Bà ở phía Nam vịnh Hạ Long, ngoài khơi thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 30 km, cách thành phố Hạ Long khoảng 25 km. Về mặt hành chính, quần đảo thuộc huyện đảo Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Nơi đây đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Cơ sở hạ tầng cũng khá phát triển với tổ hợp nhiều khách sạn, nhà nghỉ, khu nghỉ dưỡng, chùa chiền và đặc biệt là toàn bộ khu vực đảo đã được thành phố Hải Phòng triển khai các trạm thu phát wifi.


Lịch sử hình thành:
Tương truyền xưa kia tên đảo là Các Bà, là hậu phương cho Các Ông theo Thánh Gióng đánh giặc Ân. Ở thị trấn Cát Bà hiện nay có đền Các Bà. Các bản đồ hành chính thời Pháp thuộc (như bản đồ năm 1938) còn ghi là Các Bà. Như vậy có lẽ tên gọi Các Bà đã bị đọc trệch thành Cát Bà.

Trước đây đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Bà, năm 1977 mới sáp nhập với huyện Cát Hải thành huyện Cát Hải mới. Trước đây đảo thuộc tỉnh Quảng Yên, sau thuộc khu Hồng Quảng, đến năm 1956 mới chuyển về thành phố Hải Phòng.

Địa chỉ:
Thị trấn Cát Bà hiện nay là huyện lị huyện Cát Hải. Trước năm 1945, thị trấn Cát Bà là phố Cát Bà, rồi đại lý Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, tỉnh Quảng Yên. Sau năm 1945, trở thành thị xã Cát Bà. Đến năm 1957 thị xã Cát Bà đổi thành thị trấn và huyện Cát Bà mới thành lập.

Lợi thế của Cát Bà:
Là một trong những điểm nhấn của du lịch vùng Đông Bắc, Cát Bà có những nét riêng so với các điểm du lịch khác. Một trong những nét riêng đó là những bãi cát nhỏ nằm rải rác giữa các ngọn núi, nước biển trong xanh, tạo thành những bãi tắm rất đẹp. Sắc xanh của núi đá, cây rừng và màu cẩm thạch của biển đã tạo cho Cát Bà một bản hòa sắc rực rỡ giữa đất trời với hàng trăm dáng núi kỳ vĩ và những hang động huyền bí. Nhiều vịnh biển nằm sâu trong lòng đảo với những dải cát nhỏ mịn màng, nước trong như ngọc tạo cho quần thể san hô thêm lung linh ngàn sắc. Những con suối len lỏi sâu trong rừng ngày đêm róc rách tạo nên những bản hợp xướng, những hang động xuyên núi hay luồn trong từng vách đá là đặc trưng ở nơi đây.


Lượng sinh quyển nơi đây được UNESCO công nhận:
Cát Bà là một cụm du lịch thiên nhiên, sinh thái; nơi đây vừa có rừng, vừa có biển với nguồn tài nguyên phong phú, cảnh quan đẹp và nhiều loại động thực vật quí hiếm. Vì thế, đối với những du khách ưa mạo hiểm thì Vườn quốc gia Cát Bà là một điểm du lịch hấp dẫn, đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.

Vườn có 4.500 hecta rừng nguyên sinh, có hệ thực vật thường xen lẫn rừng cây lá rộng, cây lá kim và rừng kín lá rộng phát triển trên núi đá vôi. Và nhiều loại động vật, thực vật quý hiếm nên đây là nơi bảo tồn nguồn gen đa dạng. Vườn quốc gia Cát Bà có tới 22 loài động vật được ghi trong Sách đỏ Việt Nam và 6 loài được ghi trong Sách đỏ Thế giới, trong đó có voọc đầu trắng, loài động vật đặc hữu và quý hiếm của Cát Bà.


Vẻ đẹp Cát Bà:
Đối với những du khách thích khám phá cảnh đẹp thiên nhiên, thì việc viếng thăm hang động Trung Trang với những nhũ đá thiên nhiên kì bí đẹp mê hồn hay vào động Hùng Sơn chứa cả một “bệnh viện” trong chiến tranh và hiểu thêm về những chiến công, lòng dũng cảm của nhân dân Cát Bà trong cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ hay thuê một chiếc thuyền du lịch ra vịnh Lan Hạ quả là một hành trình thú vị. Vịnh Lan Hạ đẹp như một bức tranh thủy mặc, được chấm phá bởi những đường cong uốn lượn đủ muôn hình.

Nếu muốn thả mình trong làn nước trong xanh để quên hết những âu lo, muộn phiền thì hòa mình trong những dòng người đông nghịt trên các bãi tắm như Cát Cò, Cát Tiên, Cát Ông… Biển ở đây trong xanh, đẹp đến mê hồn, những bãi cát trắng mịn màng trải dài nhưng đầy kín đáo yên tĩnh. Du khách có thể tắm, chơi đùa trên cát hay phơi mình đón hoàng hôn, ngắm mặt trời lặn.

Đêm… Cát Bà trở về với sự êm đềm của nó, thị trấn im lìm bên những dải núi, phố vắng tanh, những hàng cây xao xác, những con thuyền neo đậu bến bình yên... Và lòng người cũng “mênh mang” đến lại. Sự yên tĩnh của nơi đây làm cho những con tim du khách phải thả hồn cùng không gian để quên đi những tháng ngày mệt mỏi và vất vả đẻ mưu sinh với cuộc sống. Bình yên lắm Cát Bà!

Hồ Chí Minh: Di tích lịch sử cổ xưa - Miếu Bà Thiên Hậu

Chùa Bà Thiên Hậu là một trong những ngôi chùa miếu, có lịch sử lâu đời nhất của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh giá trị về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hiện vật cổ, nơi đây còn có một giá trị khác, đó không chỉ là nơi đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng mà còn là nơi qui tụ và tương trợ lẫn nhau của bà con người Việt gốc Hoa (Quảng Đông).

Lịch sử về miếu:
Chùa Bà Thiên Hậu được nhóm người Hoa gốc huyện Tuệ Thành (Quảng Đông) di dân sang Việt Nam góp vốn và góp công xây dựng vào khoảng năm 1760 và được trùng tu nhiều lần. Chùa nằm trong khu trung tâm của những người Hoa đầu tiên đến tạo lập nên Chợ Lớn sau này.

Kiến trúc:
Chùa xây theo hình ấn, là kiểu kiến trúc đặc trưng cùa người Hoa, đây là tổ hợp 4 ngôi nhà liên kết nhau tạo thành mặt bằng giống hình chữ "khẩu" hoặc chữ "quốc". Ba dãy nhà ở giữa tạo thành tiền điện, trung điện và hậu điện. Giữa các dãy nhà này có một khoảng trống gọi là thiên tỉnh (giếng trời), giúp không gian chùa thoáng đãng, đủ ánh sáng cho hậu cung và có chỗ thoát khói hương.


Miếu Bà Thiên Hậu Hồ Chí Minh

Trang trí ở các điện là hình hoa lá, chim thú và hoành phi, câu đối, biển tự thường là màu đỏ, vàng tạo sự ấm áp, tin tưởng. Chùa còn có các bức tranh đắp nổi liên hoàn, các con vật thuộc "tứ linh".

Từ đó đến nay, qua nhiều lần trùng tu, miếu vẫn giữ được phong cách của chùa Hoa từ đường nét, nghệ thuật kiến trúc, cấu tạo mặt bằng đến vật liệu xây dựng. Miếu xây theo hình ấn, là kiểu kiến trúc đặc trưng của người Hoa, đây là tổ hợp 4 ngôi nhà liên kết nhau tạo thành mặt bằng giống hình chữ "khẩu" hoặc chữ "quốc". Ba dãy nhà ở giữa tạo thành tiền điện, trung điện và hậu điện. Giữa các dãy nhà có một khoảng trống gọi là thiên tỉnh (giếng trời), giúp không gian miếu thoáng đãng, đủ ánh sáng cho hậu cung và có chỗ thoát khói hương. 

Trang trí ở các điện là hình hoa lá, chim thú và hoành phi, câu đối, thường là màu đỏ, vàng, tạo sự ấm áp, tin tưởng. Miếu còn có các bức tranh đắp nổi hình thú thuộc "tứ linh", có gắn các phù điêu bằng gốm dày đặc từ trên nóc, mái, hiên cho đến các bàn thờ, vách tường... do 2 lò gốm Bửu Nguyên và Đồng Hòa sản xuất vào năm 1908. Pho tượng Bà Thiên Hậu tạc từ một khối gỗ nguyên cao 1 m, có từ khá lâu, trước khi xây miếu, vốn được thờ ở Biên Hòa và đến năm 1836 mới di chuyển về đây. Hai pho tượng còn lại bằng cốt giấy sơn màu. Các pho tượng đều được khoác áo thêu lộng lẫy. Gian phụ nằm hai bên chính điện thờ Quan Thánh, Địa Tạng, Thần Tài.

Văn hóa tín ngưỡng:
Miếu Bà có vị trí quan trọng trong đời sống tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Hoa trong quá trình định cư ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Ngày lễ vía Bà hằng năm vào 23-3 âm lịch được xem là ngày hội lớn của đông đảo người Hoa và người Việt, được tổ chức long trọng, có đọc văn tế, lễ hội trước sân miếu, múa rồng, múa lân, hát Tiều, hát Quảng... Năm 1993, miếu được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.

Miếu Thiên Hậu là miếu có di tích lịch sử lâu đời, có nét văn hóa đặc trưng ở nơi đây và là niềm tự hào của người dân nơi đây. Miếu có bề dày lịch sử lâu đời và là di tích văn hóa cổ xưa.

Cần Thơ và những điểm không nên bỏ qua

Cần Thơ là một thành phố trực thuộc trung ương, nằm bên hữu ngạn của sông Hậu, thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đây là một trong 5 thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam. Với lợi thế miền Tây song nước, khách du lich sẽ có những buổi dã ngoại xanh ngắn ngày mà không kém phần thú vị.


1. Chợ nổi Cái Răng:
Vị trí: Chợ nổi Cái Răng thuộc quận Cái Răng, Tp. Cần Thơ, cách bến Ninh Kiều 30 phút bằng canô
Chợ nổi Cái Răng cũng là chợ đầu mối chuyên mua bán sỉ các loại trái cây, nông sản của vùng. Hàng hóa tập trung ở đây với số lượng lớn. Mỗi mặt hàng đã được phân loại cho đồng đều về chất lượng, kích cỡ. Nếu như dân địa phương và các vùng lân cận thường sử dụng các ghe, xuồng trung bình chở các mặt hàng nông sản đến đây tiêu thụ thì những ghe bầu lớn là của các thương lái thu mua trái cây tỏa đi khắp nơi, sang tận Campuchia và Trung Quốc. Hòa mình vào không khí nhộn nhịp của buổi chợ, du khách có thể quan sát, tìm hiểu sinh hoạt của nhiều gia đình thương hồ với nhiều thế hệ chung sống trên ghe. Có những chiếc ghe như "căn hộ di động" trên sông nước với những chậu hoa kiểng, các loài vật nuôi, các tiện nghi đầy đủ như ti-vi màu, đầu dĩa, dàn âm thanh... có cả xe gắn máy đậu trên ghe.
Chợ nổi Cái Răng là một trong những điểm tham quan đặc sắc nhất ở Cần Thơ. Đây là một nét văn hóa rất đặc sắc ở vùng đồng bằng sông nước Cửu Long, thu hút rất nhiều du khách, đặc biệt là khách nước ngoài.


Thơ ca:
    "Chợ đã nổi từ nửa đêm về sáng
    Ta vẫn chìm từ giữa bữa hoàng hôn
    Em treo bẹo Cái Răng Ba Láng
    Ta thương hồ Vàm Xáng Cần Thơ
"

Cái Răng là một trong những chợ trên sông nổi tiếng ở miền Tây Nam Bộ. Chợ chuyên mua bán các loại trái cây, nông sản của vùng. Sáng sáng, hàng trăm chếc thuyền lớn bé đậu san sát. Bán sản vật gì người ta treo sản vật đó (treo bẹo) lên cây sào (cây bẹo) trên mũi thuyền. Không cần phải rao hàng như các chợ trên đất liền (thực tế cũng không thể rao khi tiếng sóng, tiếng máy nổ liên tục, và khó có thể áp mạn với xuồng khác để xem bán hàng gì).

2. Du lich vườn Cần Thơ:

 Vị trí: Vườn Cần Thơ có trên khắp các tuyến đường bộ, đường thuỷ ở Tp. Cần Thơ.


Đặc điểm: Các vườn du lịch xanh tươi đã và đang thu hút ngày càng đông du khách trong và ngoài nước đến thăm.
Vườn du lịch Mỹ Khánh, vườn nhà ông Sáu Dương, vườn lan Bình Thuỷ, vườn vòng cung, trên các tuyến sông Phong Ðiền, Phụng Hiệp và nhiều vườn du lịch gia đình khác ở Ô Môn, Thốt Nốt đang phát triển.

Từ Tp. Cần Thơ du khách theo quốc lộ 1A về hướng Sóc Trăng, qua cầu Ðầu Sáu, đến gần cầu Cái Răng rẽ phải khoảng 6km là đến vườn du lịch Mỹ Khánh. Vườn Mỹ Khánh rộng 2,2ha với hơn 20 loại cây trái, hoa kiểng và nhiều loại động vật như chim các rùa, rắn, cua, tôm …

3. Vườn cò Bằng Lăng:

 Vị trí: Vườn cò Bằng Lăng thuộc ấp Thới Bình, xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt, Tp. Cần Thơ.


Đặc điểm: Vườn cò Bằng Lăng – một trong những sân chim lớn nhất nơi miệt vườn chín dòng sông.

Trên đường từ Cần Thơ về thành phố Long Xuyên (An Giang), qua khỏi thị trấn Thốt Nốt chừng 5km là đến vườn cò Bằng Lăng. Đi dọc theo bờ sông nhỏ, dưới những hàng cây rợp bóng trước một vùng nước trắng mênh mông như biển, đó là ruộng lúa đã gặt xong vào mùa nước nổi. Du khách đến thăm vườn cò sẽ được thấy hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn con cò (cò trắng, cò xám, cò đen, cồng cộc) chao cánh và sà xuống những cành trúc la đà, đong đưa theo gió, rối rít gọi đàn…

Trời vừa hửng sáng, đàn cò lần lượt bay đi khắp nơi. Chúng thường kiếm mồi trên các ruộng lúa vừa mới gặt hái xong, thức ăn chủ yếu là cá, ốc, tép, cua còng, ếch nhái, cào cào, sâu bọ. Khoảng chừng 4-5 giờ chiều, chúng lần lượt bay về vườn cho đến khi trời tối hẳn mới hết. Lúc bấy giờ, chúng đậu trên cây giáp với bốn bề bờ rào bao xung quanh. Buổi chiều, sau khi đi ăn về, thỉnh thoảng có vài con bị mắc câu, mang theo cả cần câu bay về vườn. Chủ vườn phát hiện các con cò bị nạn, lấy sào đưa cò xuống đất, dùng cọng lá đu đủ cắt bỏ hai đầu, xỏ vào sợi dây câu, đưa cọng đu đủ vào bao tử cò đẩy nhẹ cho lưỡi câu tuột ra khỏi thành bao tử, sau đó bỏ vào bụi tre nuôi dưỡng vài ba hôm cho lại sức.

4. Nhà cố Bình Thủy:

 Vị trí: Nhà cổ Bình Thuỷ nằm trên đường Bùi Hữu Nghĩa phường Bình Thuỷ, quận Bình Thủy, Tp. Cần Thơ.


Đặc điểm: Ngôi nhà cổ năm gian hai mái, kiến trúc kiểu Pháp được gia đình họ Dương xây vào năm 1870.
Kiến trúc nhà kiểu Pháp với nền nhà cao hơn mặt sân 1m; có bốn bậc thanh hình cánh cung tao nhã, nối kết nhà với khoảng sân rộng, trần cao, trang trí hoa văn, mở nhiều cửa lớn nhỏ với khung sắt khá đơn giản giúp nhà thông thoáng, mặt tiền trang trí phù điêu đắp nổi… Toàn bộ gạch bông hoa hồng đỏ – đen lát nền nhà với hàng rào sắt đúc bảo vệ khuôn viên đều được đặt và trở từ Pháp sang.

Ðây là mẫu nhà cổ hiếm hoi còn sót lại khá nguyên vẹn giúp các nhà nghiên cứu tìm hiểu đời sống sinh hoạt, văn hoá cũng như tiến trình phát triển dưới tác động khác nhau lúc giao thời giữa hai thế kỷ của cư dân ÐBSCL.

5. Chùa Ông:

 Vị trí: Chùa Ông nằm ở đường Hai Bà Trưng, phường Tân An, Quận Ninh Kiều, Tp. Cần Thơ.


Đặc điểm: Chùa Ông là nơi sinh hoạt tín ngưỡng và văn hoá của người Hoa tại Cần Thơ. Chùa được Bộ Văn hoá – Thông tin công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 1993.

Chùa Ông có lối kiến trúc độc đáo được giữ gìn gần như nguyên vẹn từ thuở ban đầu.

Chùa được xây dựng năm 1894 – 1896 trên một khu đất có diện tích chừng 532m². Mái chùa lợp ngói âm dương với các gờ bó mái bằng những hàng ngói ống men xanh thẫm, trên bờ nóc có vô số hình nhân đủ màu bằng gốm sứ, lưỡng long chầu nguyệt, cá hoá long, chim phụng. ở hai đầu đao là hai tượng người cầm mặt trời, mặt trăng

 Trong chùa thờ Quan Công, một vị tướng thời Tam Quốc, tấm gương về lòng trung hiếu tiết nghĩa và các vị Quan Âm Nam Hải, Thái Bạch tinh quân, Thổ Địa, Đổng Vĩnh…

6. Chùa Nam Nhã
 Địa chỉ: 612 đường Cách Mạng Tháng Tám, phường An Thới, quận Bình Thủy, Tp. Cần Thơ.


Đặc điểm: Chùa do ông Nguyễn Giác Nguyên đứng ra xây dựng năm 1895, theo tông phái Minh Sư nên còn được gọi là chùa Minh Sư.

Trước đây, Chùa Nam Nhã là tiệm thuốc bắc Nam Nhã Đường và là nơi liên lạc, hội họp của các phong trào đấu tranh chống Pháp. Chùa Nam Nhã là nơi hoạt động của những sĩ phu yêu nước trong tổ chức Việt Nam Quang Phục hội.

Năm 1917, chùa được trùng tu. Sân chùa rộng rãi trồng nhiều cây, giữa sân là hòn non bộ cao hơn 2m.
Trong chính điện có bàn thờ sư cụ Giác Nguyên, Lịch Đại Tổ sư, ban thờ Tam giáo với ba pho tượng bằng đồng là tượng Đức Phật Thích Ca, Đức Khổng Tử và tượng Lão Tử. Hai bên chính điện là hai ngôi nhà 5 gian dành cho phái nam và phái nữ ở. Phía sau là khu vườn mộ, nơi yên nghỉ của những người tham gia phong trào Đông Du và xây dựng chùa.

Ngày nay, du khách đến đây không chỉ thưởng thức vẻ đẹp cổ kính, trang nghiêm của chùa, mà đến đây họ còn tìm hiểu những hoạt động sôi nổi của các sĩ phu yêu nước phong trào Đông Du, Đặc ủy Hậu Giang, Xứ ủy Nam Kỳ trong những năm đầu khó khăn gian khổ của cách mạng Việt Nam.

7. Chợ đêm Tây Đô- chợ văn hóa du lich:


 Vị trí: Chợ Tây Đô cách trung tâm Tp. Cần Thơ khoảng 1km về phía tây sông Hậu, tọa lạc trong khu Hội chợ triển lãm quốc tế Cần Thơ.
Đặc điểm: Chợ Tây Đô là trung tâm buôn bán lớn của các tỉnh Nam Bộ đồng thời cũng là điểm vui chơi giải trí, du lịch hấp dẫn.

Tuy mới hoạt động trong vài năm gần đây nhưng chợ đêm Tây Ðô được xem là một điểm du lịch văn hóa đặc trưng, nổi bật và hấp dẫn ở Cần Thơ, thu hút không chỉ người dân địa phương mà cả du khách phương xa.

Chợ Tây Ðô truớc đây là một chợ đầu mối chung chuyển các mặt hàng với nhiều địa phương trong và ngoài nước. Bên cạnh chức năng trao đổi hàng hoá, tại đây còn có các dịch vụ ẩm thực, giải trí… Do quy mô hoạt động và tầm quan trọng đối với khu vực nên chợ Tây Đô là một trung tâm buôn bán lớn của các tỉnh Nam Bộ.

Các sản phẩm tại chợ đêm Tây Ðô rất phong phú và đa dạng, đáp ứng nhu cầu của cư dân và du khách trong việc lựa chọn sản phẩm. Ngoài mục đích phục vụ mua bán hàng hóa, chợ đêm Tây Ðô cũng có những dịch vụ giải trí mới, hiện đại như: trò chơi điện tử, sân khấu ca nhạc ngoài trời và các chương trình vui chơi khác.
Ðến chợ đêm Tây Ðô, du khách sẽ có một chuyến du lịch thú vị. Bức tranh tổng hợp này đã phác hoạ chân thực cuộc sống, sinh hoạt của cư dân vùng hạ nguồn sông Mê Kông nổi tiếng này.