Thứ Hai, 18 tháng 11, 2013

Biểu tượng nền giáo dục nước nhà là hình ảnh Văn Miếu

Dưới triều nhà Nguyễn, Văn Miếu của cả triều đại và cũng là của toàn quốc được chính thức xây dựng vào năm 1808 dưới triều vua Gia Long. Miếu được xây dựng uy nghi đồ sộ, nằm bên bờ sông Hương, thuộc địa phận thôn An Bình, làng An Ninh, phía Tây Kinh thành Huế. Văn Miếu Huế hay Văn Thánh Huế là cách gọi tắt của Văn Thánh Miếu được xây dựng tại Huế.

1. Lịch sử  văn miếu Huế:
Bề dày lịch sử phát triển của Văn Miếu Huế, đã trải qua nhiều thăng trầm
Chúng ta hãy điểm qua lịch sử bắt đầu của Văn Miếu Huế. Khi bắt đầu khai phá vùng đất mới do chưa có điều kiện ổn định về kinh tế cũng như xã hội nên Văn Miếu được xây dựng đơn giản tại làng Triều Sơn ở Phú Xuân nhưng không rõ năm xây dựng, và đây được xem là Văn Miếu riêng của vùng đất mới. Đến năm 1770 đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát thì được dời đến xã Long Hồ.

Việc xây dựng Văn Miếu được tiến hành từ ngày 17 tháng 4 đến ngày 18 tháng 9 năm 1808, vua Gia Long ra lệnh làm các đồ tự khí mới để thờ, thay thế các đồ cũ và tượng thánh hiền được thay bằng bài vị.
Trải qua dâu bể của thời gian, khi mà Nguyễn Ánh lên ngôi và thống nhất đất nước, bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước và chỉnh đốn lại nền giáo dục của nước nhà, năm 1808 Văn Miếu được Vua Gia Long xây dựng lại và cho chế tác đồ thờ tự mới để thờ Khổng Tử cùng các học trò.
Văn Thánh trong ca dao:
"Văn Thánh trồng thông, Võ Thánh trồng bàng
Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù u"
2. Địa chỉ:
Văn Miếu Huế hiện nay thuộc địa phận thôn An Bình, làng An Ninh, phía Tây Kinh thành Huế cách chùa Thiên Mụ không xa. Phía trước là dòng Hương Giang thơ mộng, có bến đò nhỏ cùng Linh Tinh Môn, nhưng chiếc cổng này hiện giờ chỉ còn những chiếc cột, nó đã bị thời gian cũng như chiến tranh phá huỷ.


Đối diện với Tinh Linh môn là Văn Miếu môn theo kiểu tam quan phía trên có gác, lợp ngói hoàng lưu ly, qua cổng bên trái có Hữu Văn Đường; bên phải xây Duy Lễ Đường là 2 ngôi nhà một gian 2 chái dùng để cho vua quan nghỉ ngơi để chuẫn bị cho việc tế lễ ở chính miếu phía trong.


Tiếp đến là Đại Thành môn là một tam quan xây bằng gạch, bên trong là một sân rộng, hai bên sân là hai hàng bia ghi danh các tiến sĩ trong các khoa thi. Nguyên trong suốt thời Gia Long, ông chỉ cho mở các khoa thi hương nên chưa có các tấm bia này, cho đến khi Vua Minh Mạng lên ngôi và bắt đầu cho thi hội và bắt đầu được dựng từ năm 1831 đến năm 1919.


Qua khỏi sân là Đại Thành điện, nơi thờ Khổng Tử và các học trò, đây là một kiến trúc đồ sộ dài 32m và rộng 25m xây theo lối trùng thềm điệp ốc, tất cả những án thờ trong điện thay vì là các bức tượng như truyền thống thì theo lệnh Vua Gia Long đều được thay bằng bài vị gỗ.


Phía trước hai bên điện có 2 nhà phối là Đông Vu và Tây Vu cùng với 2 ngôi nhà bia, bên phải có tấm bia khắc bài văn bia ”Thánh Tổ Nhân Hoàng đế dụ: Cung giám bất đắc liệt tấn thân” (vua Minh Mạng dụ về việc Thái giám không được liệt vào hạng quan lại); bia ở nhà bia bên trái khắc bài văn bia “Hiến Tổ Chương Hoàng đế dụ: Ngoại thích bất đắc thân chính” (vua Thiệu Trị dụ về việc bà con bên ngoại của vua không được tham gia chính quyền).

Hiện nay hầu như tất cả những công trình chính ở Văn Miếu chỉ còn là phế tích, chỉ còn hàng bia cùng với Văn Miếu môn và Đại Thành môn. Hầu hết đã bị mất đi dấu vết của ngày xưa, nhưng những gì còn lại sẽ là di tích được gìn giữ và bảo tồn. 

khám phá Cát Bà - vẻ yên tĩnh tự nhiên

Khi hoàng hôn buông xuống, cảnh đẹp của cát Bà càng được tăng lên bởi cả cái thị trấn nhỏ nằm hướng mặt ra biển, hình ảnh những chiếc tàu lớn, nhỏ còn đang lênh đên trên biển, thị trấn thì yên bình trong cái không khí chiều tà này. Cùng khám phá Cát Bà về vẻ yên tĩnh tự nhiên.

Cát Bà:
Cát Bà là quần thể gồm 367 đảo trong đó có đảo Cát Bà ở phía Nam vịnh Hạ Long, ngoài khơi thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 30 km, cách thành phố Hạ Long khoảng 25 km. Về mặt hành chính, quần đảo thuộc huyện đảo Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Nơi đây đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Cơ sở hạ tầng cũng khá phát triển với tổ hợp nhiều khách sạn, nhà nghỉ, khu nghỉ dưỡng, chùa chiền và đặc biệt là toàn bộ khu vực đảo đã được thành phố Hải Phòng triển khai các trạm thu phát wifi.


Lịch sử hình thành:
Tương truyền xưa kia tên đảo là Các Bà, là hậu phương cho Các Ông theo Thánh Gióng đánh giặc Ân. Ở thị trấn Cát Bà hiện nay có đền Các Bà. Các bản đồ hành chính thời Pháp thuộc (như bản đồ năm 1938) còn ghi là Các Bà. Như vậy có lẽ tên gọi Các Bà đã bị đọc trệch thành Cát Bà.

Trước đây đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Bà, năm 1977 mới sáp nhập với huyện Cát Hải thành huyện Cát Hải mới. Trước đây đảo thuộc tỉnh Quảng Yên, sau thuộc khu Hồng Quảng, đến năm 1956 mới chuyển về thành phố Hải Phòng.

Địa chỉ:
Thị trấn Cát Bà hiện nay là huyện lị huyện Cát Hải. Trước năm 1945, thị trấn Cát Bà là phố Cát Bà, rồi đại lý Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, tỉnh Quảng Yên. Sau năm 1945, trở thành thị xã Cát Bà. Đến năm 1957 thị xã Cát Bà đổi thành thị trấn và huyện Cát Bà mới thành lập.

Lợi thế của Cát Bà:
Là một trong những điểm nhấn của du lịch vùng Đông Bắc, Cát Bà có những nét riêng so với các điểm du lịch khác. Một trong những nét riêng đó là những bãi cát nhỏ nằm rải rác giữa các ngọn núi, nước biển trong xanh, tạo thành những bãi tắm rất đẹp. Sắc xanh của núi đá, cây rừng và màu cẩm thạch của biển đã tạo cho Cát Bà một bản hòa sắc rực rỡ giữa đất trời với hàng trăm dáng núi kỳ vĩ và những hang động huyền bí. Nhiều vịnh biển nằm sâu trong lòng đảo với những dải cát nhỏ mịn màng, nước trong như ngọc tạo cho quần thể san hô thêm lung linh ngàn sắc. Những con suối len lỏi sâu trong rừng ngày đêm róc rách tạo nên những bản hợp xướng, những hang động xuyên núi hay luồn trong từng vách đá là đặc trưng ở nơi đây.


Lượng sinh quyển nơi đây được UNESCO công nhận:
Cát Bà là một cụm du lịch thiên nhiên, sinh thái; nơi đây vừa có rừng, vừa có biển với nguồn tài nguyên phong phú, cảnh quan đẹp và nhiều loại động thực vật quí hiếm. Vì thế, đối với những du khách ưa mạo hiểm thì Vườn quốc gia Cát Bà là một điểm du lịch hấp dẫn, đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.

Vườn có 4.500 hecta rừng nguyên sinh, có hệ thực vật thường xen lẫn rừng cây lá rộng, cây lá kim và rừng kín lá rộng phát triển trên núi đá vôi. Và nhiều loại động vật, thực vật quý hiếm nên đây là nơi bảo tồn nguồn gen đa dạng. Vườn quốc gia Cát Bà có tới 22 loài động vật được ghi trong Sách đỏ Việt Nam và 6 loài được ghi trong Sách đỏ Thế giới, trong đó có voọc đầu trắng, loài động vật đặc hữu và quý hiếm của Cát Bà.


Vẻ đẹp Cát Bà:
Đối với những du khách thích khám phá cảnh đẹp thiên nhiên, thì việc viếng thăm hang động Trung Trang với những nhũ đá thiên nhiên kì bí đẹp mê hồn hay vào động Hùng Sơn chứa cả một “bệnh viện” trong chiến tranh và hiểu thêm về những chiến công, lòng dũng cảm của nhân dân Cát Bà trong cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ hay thuê một chiếc thuyền du lịch ra vịnh Lan Hạ quả là một hành trình thú vị. Vịnh Lan Hạ đẹp như một bức tranh thủy mặc, được chấm phá bởi những đường cong uốn lượn đủ muôn hình.

Nếu muốn thả mình trong làn nước trong xanh để quên hết những âu lo, muộn phiền thì hòa mình trong những dòng người đông nghịt trên các bãi tắm như Cát Cò, Cát Tiên, Cát Ông… Biển ở đây trong xanh, đẹp đến mê hồn, những bãi cát trắng mịn màng trải dài nhưng đầy kín đáo yên tĩnh. Du khách có thể tắm, chơi đùa trên cát hay phơi mình đón hoàng hôn, ngắm mặt trời lặn.

Đêm… Cát Bà trở về với sự êm đềm của nó, thị trấn im lìm bên những dải núi, phố vắng tanh, những hàng cây xao xác, những con thuyền neo đậu bến bình yên... Và lòng người cũng “mênh mang” đến lại. Sự yên tĩnh của nơi đây làm cho những con tim du khách phải thả hồn cùng không gian để quên đi những tháng ngày mệt mỏi và vất vả đẻ mưu sinh với cuộc sống. Bình yên lắm Cát Bà!

Hồ Chí Minh: Di tích lịch sử cổ xưa - Miếu Bà Thiên Hậu

Chùa Bà Thiên Hậu là một trong những ngôi chùa miếu, có lịch sử lâu đời nhất của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh giá trị về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hiện vật cổ, nơi đây còn có một giá trị khác, đó không chỉ là nơi đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng mà còn là nơi qui tụ và tương trợ lẫn nhau của bà con người Việt gốc Hoa (Quảng Đông).

Lịch sử về miếu:
Chùa Bà Thiên Hậu được nhóm người Hoa gốc huyện Tuệ Thành (Quảng Đông) di dân sang Việt Nam góp vốn và góp công xây dựng vào khoảng năm 1760 và được trùng tu nhiều lần. Chùa nằm trong khu trung tâm của những người Hoa đầu tiên đến tạo lập nên Chợ Lớn sau này.

Kiến trúc:
Chùa xây theo hình ấn, là kiểu kiến trúc đặc trưng cùa người Hoa, đây là tổ hợp 4 ngôi nhà liên kết nhau tạo thành mặt bằng giống hình chữ "khẩu" hoặc chữ "quốc". Ba dãy nhà ở giữa tạo thành tiền điện, trung điện và hậu điện. Giữa các dãy nhà này có một khoảng trống gọi là thiên tỉnh (giếng trời), giúp không gian chùa thoáng đãng, đủ ánh sáng cho hậu cung và có chỗ thoát khói hương.


Miếu Bà Thiên Hậu Hồ Chí Minh

Trang trí ở các điện là hình hoa lá, chim thú và hoành phi, câu đối, biển tự thường là màu đỏ, vàng tạo sự ấm áp, tin tưởng. Chùa còn có các bức tranh đắp nổi liên hoàn, các con vật thuộc "tứ linh".

Từ đó đến nay, qua nhiều lần trùng tu, miếu vẫn giữ được phong cách của chùa Hoa từ đường nét, nghệ thuật kiến trúc, cấu tạo mặt bằng đến vật liệu xây dựng. Miếu xây theo hình ấn, là kiểu kiến trúc đặc trưng của người Hoa, đây là tổ hợp 4 ngôi nhà liên kết nhau tạo thành mặt bằng giống hình chữ "khẩu" hoặc chữ "quốc". Ba dãy nhà ở giữa tạo thành tiền điện, trung điện và hậu điện. Giữa các dãy nhà có một khoảng trống gọi là thiên tỉnh (giếng trời), giúp không gian miếu thoáng đãng, đủ ánh sáng cho hậu cung và có chỗ thoát khói hương. 

Trang trí ở các điện là hình hoa lá, chim thú và hoành phi, câu đối, thường là màu đỏ, vàng, tạo sự ấm áp, tin tưởng. Miếu còn có các bức tranh đắp nổi hình thú thuộc "tứ linh", có gắn các phù điêu bằng gốm dày đặc từ trên nóc, mái, hiên cho đến các bàn thờ, vách tường... do 2 lò gốm Bửu Nguyên và Đồng Hòa sản xuất vào năm 1908. Pho tượng Bà Thiên Hậu tạc từ một khối gỗ nguyên cao 1 m, có từ khá lâu, trước khi xây miếu, vốn được thờ ở Biên Hòa và đến năm 1836 mới di chuyển về đây. Hai pho tượng còn lại bằng cốt giấy sơn màu. Các pho tượng đều được khoác áo thêu lộng lẫy. Gian phụ nằm hai bên chính điện thờ Quan Thánh, Địa Tạng, Thần Tài.

Văn hóa tín ngưỡng:
Miếu Bà có vị trí quan trọng trong đời sống tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Hoa trong quá trình định cư ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Ngày lễ vía Bà hằng năm vào 23-3 âm lịch được xem là ngày hội lớn của đông đảo người Hoa và người Việt, được tổ chức long trọng, có đọc văn tế, lễ hội trước sân miếu, múa rồng, múa lân, hát Tiều, hát Quảng... Năm 1993, miếu được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.

Miếu Thiên Hậu là miếu có di tích lịch sử lâu đời, có nét văn hóa đặc trưng ở nơi đây và là niềm tự hào của người dân nơi đây. Miếu có bề dày lịch sử lâu đời và là di tích văn hóa cổ xưa.

Cần Thơ và những điểm không nên bỏ qua

Cần Thơ là một thành phố trực thuộc trung ương, nằm bên hữu ngạn của sông Hậu, thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đây là một trong 5 thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam. Với lợi thế miền Tây song nước, khách du lich sẽ có những buổi dã ngoại xanh ngắn ngày mà không kém phần thú vị.


1. Chợ nổi Cái Răng:
Vị trí: Chợ nổi Cái Răng thuộc quận Cái Răng, Tp. Cần Thơ, cách bến Ninh Kiều 30 phút bằng canô
Chợ nổi Cái Răng cũng là chợ đầu mối chuyên mua bán sỉ các loại trái cây, nông sản của vùng. Hàng hóa tập trung ở đây với số lượng lớn. Mỗi mặt hàng đã được phân loại cho đồng đều về chất lượng, kích cỡ. Nếu như dân địa phương và các vùng lân cận thường sử dụng các ghe, xuồng trung bình chở các mặt hàng nông sản đến đây tiêu thụ thì những ghe bầu lớn là của các thương lái thu mua trái cây tỏa đi khắp nơi, sang tận Campuchia và Trung Quốc. Hòa mình vào không khí nhộn nhịp của buổi chợ, du khách có thể quan sát, tìm hiểu sinh hoạt của nhiều gia đình thương hồ với nhiều thế hệ chung sống trên ghe. Có những chiếc ghe như "căn hộ di động" trên sông nước với những chậu hoa kiểng, các loài vật nuôi, các tiện nghi đầy đủ như ti-vi màu, đầu dĩa, dàn âm thanh... có cả xe gắn máy đậu trên ghe.
Chợ nổi Cái Răng là một trong những điểm tham quan đặc sắc nhất ở Cần Thơ. Đây là một nét văn hóa rất đặc sắc ở vùng đồng bằng sông nước Cửu Long, thu hút rất nhiều du khách, đặc biệt là khách nước ngoài.


Thơ ca:
    "Chợ đã nổi từ nửa đêm về sáng
    Ta vẫn chìm từ giữa bữa hoàng hôn
    Em treo bẹo Cái Răng Ba Láng
    Ta thương hồ Vàm Xáng Cần Thơ
"

Cái Răng là một trong những chợ trên sông nổi tiếng ở miền Tây Nam Bộ. Chợ chuyên mua bán các loại trái cây, nông sản của vùng. Sáng sáng, hàng trăm chếc thuyền lớn bé đậu san sát. Bán sản vật gì người ta treo sản vật đó (treo bẹo) lên cây sào (cây bẹo) trên mũi thuyền. Không cần phải rao hàng như các chợ trên đất liền (thực tế cũng không thể rao khi tiếng sóng, tiếng máy nổ liên tục, và khó có thể áp mạn với xuồng khác để xem bán hàng gì).

2. Du lich vườn Cần Thơ:

 Vị trí: Vườn Cần Thơ có trên khắp các tuyến đường bộ, đường thuỷ ở Tp. Cần Thơ.


Đặc điểm: Các vườn du lịch xanh tươi đã và đang thu hút ngày càng đông du khách trong và ngoài nước đến thăm.
Vườn du lịch Mỹ Khánh, vườn nhà ông Sáu Dương, vườn lan Bình Thuỷ, vườn vòng cung, trên các tuyến sông Phong Ðiền, Phụng Hiệp và nhiều vườn du lịch gia đình khác ở Ô Môn, Thốt Nốt đang phát triển.

Từ Tp. Cần Thơ du khách theo quốc lộ 1A về hướng Sóc Trăng, qua cầu Ðầu Sáu, đến gần cầu Cái Răng rẽ phải khoảng 6km là đến vườn du lịch Mỹ Khánh. Vườn Mỹ Khánh rộng 2,2ha với hơn 20 loại cây trái, hoa kiểng và nhiều loại động vật như chim các rùa, rắn, cua, tôm …

3. Vườn cò Bằng Lăng:

 Vị trí: Vườn cò Bằng Lăng thuộc ấp Thới Bình, xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt, Tp. Cần Thơ.


Đặc điểm: Vườn cò Bằng Lăng – một trong những sân chim lớn nhất nơi miệt vườn chín dòng sông.

Trên đường từ Cần Thơ về thành phố Long Xuyên (An Giang), qua khỏi thị trấn Thốt Nốt chừng 5km là đến vườn cò Bằng Lăng. Đi dọc theo bờ sông nhỏ, dưới những hàng cây rợp bóng trước một vùng nước trắng mênh mông như biển, đó là ruộng lúa đã gặt xong vào mùa nước nổi. Du khách đến thăm vườn cò sẽ được thấy hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn con cò (cò trắng, cò xám, cò đen, cồng cộc) chao cánh và sà xuống những cành trúc la đà, đong đưa theo gió, rối rít gọi đàn…

Trời vừa hửng sáng, đàn cò lần lượt bay đi khắp nơi. Chúng thường kiếm mồi trên các ruộng lúa vừa mới gặt hái xong, thức ăn chủ yếu là cá, ốc, tép, cua còng, ếch nhái, cào cào, sâu bọ. Khoảng chừng 4-5 giờ chiều, chúng lần lượt bay về vườn cho đến khi trời tối hẳn mới hết. Lúc bấy giờ, chúng đậu trên cây giáp với bốn bề bờ rào bao xung quanh. Buổi chiều, sau khi đi ăn về, thỉnh thoảng có vài con bị mắc câu, mang theo cả cần câu bay về vườn. Chủ vườn phát hiện các con cò bị nạn, lấy sào đưa cò xuống đất, dùng cọng lá đu đủ cắt bỏ hai đầu, xỏ vào sợi dây câu, đưa cọng đu đủ vào bao tử cò đẩy nhẹ cho lưỡi câu tuột ra khỏi thành bao tử, sau đó bỏ vào bụi tre nuôi dưỡng vài ba hôm cho lại sức.

4. Nhà cố Bình Thủy:

 Vị trí: Nhà cổ Bình Thuỷ nằm trên đường Bùi Hữu Nghĩa phường Bình Thuỷ, quận Bình Thủy, Tp. Cần Thơ.


Đặc điểm: Ngôi nhà cổ năm gian hai mái, kiến trúc kiểu Pháp được gia đình họ Dương xây vào năm 1870.
Kiến trúc nhà kiểu Pháp với nền nhà cao hơn mặt sân 1m; có bốn bậc thanh hình cánh cung tao nhã, nối kết nhà với khoảng sân rộng, trần cao, trang trí hoa văn, mở nhiều cửa lớn nhỏ với khung sắt khá đơn giản giúp nhà thông thoáng, mặt tiền trang trí phù điêu đắp nổi… Toàn bộ gạch bông hoa hồng đỏ – đen lát nền nhà với hàng rào sắt đúc bảo vệ khuôn viên đều được đặt và trở từ Pháp sang.

Ðây là mẫu nhà cổ hiếm hoi còn sót lại khá nguyên vẹn giúp các nhà nghiên cứu tìm hiểu đời sống sinh hoạt, văn hoá cũng như tiến trình phát triển dưới tác động khác nhau lúc giao thời giữa hai thế kỷ của cư dân ÐBSCL.

5. Chùa Ông:

 Vị trí: Chùa Ông nằm ở đường Hai Bà Trưng, phường Tân An, Quận Ninh Kiều, Tp. Cần Thơ.


Đặc điểm: Chùa Ông là nơi sinh hoạt tín ngưỡng và văn hoá của người Hoa tại Cần Thơ. Chùa được Bộ Văn hoá – Thông tin công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 1993.

Chùa Ông có lối kiến trúc độc đáo được giữ gìn gần như nguyên vẹn từ thuở ban đầu.

Chùa được xây dựng năm 1894 – 1896 trên một khu đất có diện tích chừng 532m². Mái chùa lợp ngói âm dương với các gờ bó mái bằng những hàng ngói ống men xanh thẫm, trên bờ nóc có vô số hình nhân đủ màu bằng gốm sứ, lưỡng long chầu nguyệt, cá hoá long, chim phụng. ở hai đầu đao là hai tượng người cầm mặt trời, mặt trăng

 Trong chùa thờ Quan Công, một vị tướng thời Tam Quốc, tấm gương về lòng trung hiếu tiết nghĩa và các vị Quan Âm Nam Hải, Thái Bạch tinh quân, Thổ Địa, Đổng Vĩnh…

6. Chùa Nam Nhã
 Địa chỉ: 612 đường Cách Mạng Tháng Tám, phường An Thới, quận Bình Thủy, Tp. Cần Thơ.


Đặc điểm: Chùa do ông Nguyễn Giác Nguyên đứng ra xây dựng năm 1895, theo tông phái Minh Sư nên còn được gọi là chùa Minh Sư.

Trước đây, Chùa Nam Nhã là tiệm thuốc bắc Nam Nhã Đường và là nơi liên lạc, hội họp của các phong trào đấu tranh chống Pháp. Chùa Nam Nhã là nơi hoạt động của những sĩ phu yêu nước trong tổ chức Việt Nam Quang Phục hội.

Năm 1917, chùa được trùng tu. Sân chùa rộng rãi trồng nhiều cây, giữa sân là hòn non bộ cao hơn 2m.
Trong chính điện có bàn thờ sư cụ Giác Nguyên, Lịch Đại Tổ sư, ban thờ Tam giáo với ba pho tượng bằng đồng là tượng Đức Phật Thích Ca, Đức Khổng Tử và tượng Lão Tử. Hai bên chính điện là hai ngôi nhà 5 gian dành cho phái nam và phái nữ ở. Phía sau là khu vườn mộ, nơi yên nghỉ của những người tham gia phong trào Đông Du và xây dựng chùa.

Ngày nay, du khách đến đây không chỉ thưởng thức vẻ đẹp cổ kính, trang nghiêm của chùa, mà đến đây họ còn tìm hiểu những hoạt động sôi nổi của các sĩ phu yêu nước phong trào Đông Du, Đặc ủy Hậu Giang, Xứ ủy Nam Kỳ trong những năm đầu khó khăn gian khổ của cách mạng Việt Nam.

7. Chợ đêm Tây Đô- chợ văn hóa du lich:


 Vị trí: Chợ Tây Đô cách trung tâm Tp. Cần Thơ khoảng 1km về phía tây sông Hậu, tọa lạc trong khu Hội chợ triển lãm quốc tế Cần Thơ.
Đặc điểm: Chợ Tây Đô là trung tâm buôn bán lớn của các tỉnh Nam Bộ đồng thời cũng là điểm vui chơi giải trí, du lịch hấp dẫn.

Tuy mới hoạt động trong vài năm gần đây nhưng chợ đêm Tây Ðô được xem là một điểm du lịch văn hóa đặc trưng, nổi bật và hấp dẫn ở Cần Thơ, thu hút không chỉ người dân địa phương mà cả du khách phương xa.

Chợ Tây Ðô truớc đây là một chợ đầu mối chung chuyển các mặt hàng với nhiều địa phương trong và ngoài nước. Bên cạnh chức năng trao đổi hàng hoá, tại đây còn có các dịch vụ ẩm thực, giải trí… Do quy mô hoạt động và tầm quan trọng đối với khu vực nên chợ Tây Đô là một trung tâm buôn bán lớn của các tỉnh Nam Bộ.

Các sản phẩm tại chợ đêm Tây Ðô rất phong phú và đa dạng, đáp ứng nhu cầu của cư dân và du khách trong việc lựa chọn sản phẩm. Ngoài mục đích phục vụ mua bán hàng hóa, chợ đêm Tây Ðô cũng có những dịch vụ giải trí mới, hiện đại như: trò chơi điện tử, sân khấu ca nhạc ngoài trời và các chương trình vui chơi khác.
Ðến chợ đêm Tây Ðô, du khách sẽ có một chuyến du lịch thú vị. Bức tranh tổng hợp này đã phác hoạ chân thực cuộc sống, sinh hoạt của cư dân vùng hạ nguồn sông Mê Kông nổi tiếng này.

Vẻ đẹp miền sơn cước - Cao nguyên đá Đồng Văn

Cao Nguyên đá Đồng Văn một vẻ đẹp vùng sơn cước đã làm rung động nhiều con tim du khách đến đây. ừ tháng 4 năm 2010, hồ sơ cao nguyên đá Đồng Văn được đệ trình UNESCO công nhận là công viên địa chất toàn cầu. Đây cũng là công viên địa chất toàn cầu đầu tiên của Việt Nam.

Với hàng loạt di sản về địa chất, địa tầng, kiến trúc cùng những nét văn hóa độc đáo của đồng bào vùng cao, Cao nguyên đá Đồng Văn mang một vẻ đẹp hoang sơ, tinh khiết và đầy bí ẩn.

Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể bảo tồn tôn tạo và phát huy giá trị Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn giai đoạn 2012-2020, tầm nhìn 2030.

Vẻ đẹp tiềm ẩn miền sơn cước



Cao nguyên đá Đồng Văn là một trong những vùng đá vôi đặc biệt, chứa đựng những dấu ấn tiêu biểu về lịch sử phát triển vỏ quả đất, những hiện tượng tự nhiên, cảnh quan đặc sắc về thẩm mỹ, tính đa dạng sinh học cao và truyền thống văn hóa lâu đời của cộng đồng cư dân bản địa.

Cao nguyên đá Đồng Văn có đủ các yếu tố hội tụ để trở thành công viên Địa chất toàn cầu: diện mạo địa chất khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên phong phú; có bản sắc văn hoá cũng hết sức độc đáo và ấn tượng như văn hoá của dân tộc Mông, Lô Lô, Pu Péo, Dao. Cao nguyên đá cũng là nơi có nhiều di tích danh thắng quốc gia đã được công nhận như: Di tích kiến trúc nhà Vương, Cột cờ Lũng Cú, phố cổ Đồng Văn, đèo Mã Pì Lèng, núi Đôi Quản Bạ v.v.

Trải qua hơn 100km đường đèo với những đoạn cua tay áo gấp đến chóng mặt giữa một bên là vực sâu và một bên là từng lớp núi đá tai mèo, khung cảnh hoang sơ và hùng vĩ của Cao nguyên đá Đồng Văn hiện ra trong mờ mịt khói mây khiến chúng tôi thực sự choáng ngợp.

Đứng trên đỉnh dốc Mã Pì Lèng, dòng sông Nho Quế xanh biếc như một dải lụa vắt qua núi khiến cảnh tượng miền đất này mang nét kỳ ảo và nên thơ. Cao nguyên đá Đồng Văn đẹp đến ngỡ ngàng từ những căn nhà cheo leo trên núi đá của đồng bào Mông đến những thửa ruộng bậc thang trải dài theo dốc núi.

Vẻ đẹp của miền đất còn được đồng bào dân tộc nơi đây tô điểm thêm bằng những ngôi nhà trình tường (nhà làm bằng đất), hàng rào bằng đá và cả những trang phục dân tộc mang nhiều màu sắc vui tươi, độc đáo.

Cao nguyên đá Đồng Văn, tỉnh Hà Giang là vùng núi đá cao trên 1.000 mét bao gồm bốn huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh và Quản Bạ với diện tích hơn 2.300km2.

Nơi đây hiện có hơn 250.000 dân sinh sống với 17 dân tộc thiểu số, chiếm 90% dân số cả vùng, trong đó dân tộc Mông chiếm 70% số dân, lên đến hơn 230.000 người. Đây là vùng tập trung người Mông đông nhất cả nước.

Theo đánh giá của Hội đồng tư vấn Mạng lưới Công viên Địa chất toàn cầu (UNESCO), Cao nguyên đá Đồng Văn là một trong những vùng đá vôi đặc biệt, chứa đựng những dấu ấn tiêu biểu về lịch sử phát triển vỏ Trái Đất, những hiện tượng tự nhiên, cảnh quan đặc sắc về thẩm mỹ, tính đa dạng sinh học cao và truyền thống văn hóa lâu đời của cộng đồng cư dân bản địa.

Cao nguyên đá Đồng Văn hội tụ một loạt hệ thống di sản độc đáo như Di sản địa chất với rừng hóa thạch Huệ biển Cán Chu Phìn, nghĩa địa hóa thạch Làn Chải, điểm hóa thạch Ngã ba Lũng Pù-Khau Vai-Mèo Vạc, điểm hóa thạch Tay cuộn Ma Lé, điểm hóa thạch Trùng thoi (thị trấn Đồng Văn).

Di sản địa tầng gồm mặt cắt địa chất Lũng Cú-Ma Lé, ranh giới thời địa tầng Frasni-Famen tại đèo Si Phai; Di sản địa mạo với danh thắng núi đôi Quản Bạ, tháp kim Pải Lủng, thung lũng Thủy Mặc, rừng đá Khâu Vai… cùng rất nhiều di sản kiến trúc-lịch sử-văn hóa-danh thắng như phố cổ Đồng Văn, di tích Nhà Vương, thị trấn Phó Bảng…, các thôn văn hóa dân tộc và làng văn hóa du lịch.

Mặc dù có tiềm năng du lịch lớn nhưng Đồng Văn vẫn chưa khai thác được triệt để những lợi thế này. Trong năm 2012, lượng khách du lịch đến đây chỉ đạt 330.000 khách, trong đó chỉ có chưa đến 20.000 khách quốc tế.

Bên cạnh đó, mức chi tiêu của khách du lịch khi đến đây chỉ dao động từ 15-25 USD/ ngày/khách, thấp hơn nhiều so với mức chi tiêu trung bình của khách du lịch đến Việt Nam (60-70 USD/ngày/khách).

Bảo tồn di sản đồng hành với phát triển du lịch

Hiện tại, ngành Văn hoá Thể thao và Du lịch Hà Giang đang nỗ lực phát huy tối đa các tiềm năng du lịch và các bản sắc văn hoá dân tộc ở trên cao nguyên đá; đồng thời giữ gìn các di sản thiên nhiên vốn có. Hà Giang đã cấm khai thác đá, hang động, nhũ đá và tất cả các công việc liên quan đến di sản Công viên địa chất toàn cầu. Tỉnh coi đây là động lực, tiền đề tốt đẹp nhất cho việc thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quan chiêm ngưỡng, du lịch trên cao nguyên đá.

Tỉnh Hà Giang đang thực hiện việc cắm biển di tích và nâng cao năng lực nhận thức của cộng đồng các dân tộc, tạo điều kiện phát triển kinh tế, góp phần nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc vùng cao. Cùng với đó, đồng bào vùng Cao nguyên đá Đồng Văn- những chủ nhân của di sản thế giới mới có điều kiện chung tay bảo vệ di sản quí giá của nhân loại.

Tiến sỹ Nguyễn Lê Huy, Trưởng Ban quản lý Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn trăn trở, Cao nguyên đá Đồng Văn là một trong những vùng khó khăn nhất cả nước. Những tài nguyên phục vụ dân sinh và kinh tế như đất canh tác và nguồn nước sinh hoạt, nước canh tác, chất đốt trên địa bàn còn rất thiếu thốn. Hạ tầng cơ sở như hệ thống giao thông, hạ tầng du lịch cũng bị ảnh hưởng rất nhiều do địa hình của cao nguyên đá.

Bên cạnh đó, đời sống, trình độ nhận thức về du lịch của người dân, đặc biệt là các dân tộc thiểu số còn kém. Nguồn nhân lực cho ngành du lịch có chất lượng thấp, chưa đảm bảo yêu cầu phát triển đã tác động không nhỏ đến chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch của Đồng Văn. Hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch chưa thực sự được đầu tư nên chưa đạt hiệu quả cao.

Nhận thức được những khó khăn trên, các cơ quan chuyên môn của tỉnh Hà Giang cùng với sự giúp đỡ của đơn vị tư vấn là trường Đại học Quốc gia Hà Nội đã xây dựng quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Công viên địa chất Đồng Văn với trọng tâm chủ yếu gồm hai phần: Bảo tồn di sản, nghiên cứu khoa học và phát triển du lịch.

Việc xây dựng quy hoạch theo hướng bảo tồn, phát huy giá trị di sản, trước hết nhằm thực hiện cam kết với cộng đồng quốc tế về bảo tồn di sản địa chất, di sản văn hóa và địa sinh thái của Cao nguyên đá Đồng Văn.

Tiếp theo là khai thác giá trị của các di sản phục vụ phát triển du lịch, coi du lịch là sinh kế mới cho cộng đồng các đồng bào dân tộc trên vùng cao nguyên đá. Đây là định hướng mô hình mới của mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu (UNESCO) trao riêng cho Đồng Văn bởi khác với các công viên địa chất khác trên thế giới thường được chuyển từ các khu du lịch sang nên sẵn có cơ sở hạ tầng du lịch tốt lại không có nhiều cư dân sinh sống quanh khu vực.


Công viên Đồng Văn có tới hơn 250.000 dân sinh sống. Các bước trên cũng nhằm đáp ứng cho việc đánh giá tư cách thành viên của Đồng Văn trong Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu vào năm 2014.

Theo tiến sỹ Nguyễn Lê Huy, trong hai năm qua kể từ khi Cao nguyên đá Đồng Văn được công nhận là Công viên địa chất toàn cầu, tỉnh Hà Giang đã triển khai một số chương trình quảng bá hình ảnh qua kết nối trang web của Ban quản lý Công viên địa chất Đồng Văn với các trang điện tử của các cơ quan truyền thông, du lịch, Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam, các đại sứ quán các nước tại Việt Nam nhằm đưa thông tin về vùng Cao nguyên đá đến gần hơn với khách du lịch. Bước đầu, những hoạt động trên cũng có kết quả khả quan.

Hiện nay, tỉnh cũng đang xây dựng dự án quảng bá hình ảnh về Công viên địa chất Đồng Văn và tỉnh Hà Giang qua hai cảng sân bay Nội Bài và Tân Sơn Nhất, trong đó dự kiến thành lập trung tâm thông tin tại Sân bay Nội Bài.

Ban Quản lý Công viên địa chất Đồng Văn cũng đã xây dựng các dự án giới thiệu kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư cho Cao nguyên đá Đồng Văn. Dự kiến trong năm nay, một số dự án xây dựng khách sạn, khu dịch vụ sẽ bước đầu được triển khai tại đây.

Hy vọng trong tương lai không xa, Cao nguyên đá Đồng Văn sẽ trở thành một trong những điểm đến yêu thích của khách du lịch trong nước cũng như quốc tế khi đến Hà Giang, nơi địa đầu Tổ quốc.

Cao Nguyên đá Đồng Văn là niềm tự hào của ngành du lịch, cũng là điểm thu hút khách quốc tế đến đây khá nhiều. Với những lợi thế về địa hình đồi núi, những còn đường vòng vèo sẽ càng thu hút khách đến nơi đây.

Ghé thăm nhà thờ đá cổ ở Tam Đảo

Tam Đảo là một dãy núi đá ở vùng Đông Bắc Việt Nam nằm trên địa bàn ba tỉnh Vĩnh Phúc. Gọi là Tam Đảo, vì ở đây có ba ngọn núi cao nhô lên trên biển mây, đó là Thạch Bàn, Thiên Thị và Máng Chỉ. Ngọn cao nhất có độ cao tuyệt đối là 1.591 m. là một thung lũng hình lòng chảo. Ở đây có một ngọn núi có tên gọi Nhà Thờ, vì sát chân núi nầy có một ngôi nhà thờ bằng đá cổ.


Theo tư liệu, năm 1902, người Pháp khám phá ra thung lũng rộng 253 hecta, trên độ cao 900 mét, một ngày có bốn mùa xinh đẹp tuyệt vời ở Tam Đảo (Vĩnh Phúc) nầy. Họ nhanh chóng bắt tay biến Tam Đảo thành nơi nghỉ dưỡng lý tưởng bậc nhất Đông Dương, dành cho các quan chức của họ. Dưới bàn tay của phu phen người bản xứ, tù thường phạm, tù chính trị, qua sự cai quản của Pháp, dần dần Tam Đảo mọc lên 145 tòa biệt thự nguy nga, tráng lệ, sân thể thao, sàn nhảy, hồ bơi, nhà thờ, trên những con đường lượn qua các đồi dốc cao thấp thơ mộng. Đó là quyết tâm của người Pháp biến Tam Đảo mang vẻ đẹp phương Tây lãng mạn, là Đà Lạt xứ Bắc, một “Hòn ngọc Đông Dương”. Tuy nhiên, qua chiến tranh, những công trình thấm đẫm mồ hôi, máu và xác người bản xứ ấy nay đã tiêu vong, một số còn “xác”, chỉ riêng nhà thờ còn tồn tại.


Cầu thang lên nhà thờ tinh xảo và mỹ thuật.

Theo các tài liệu mà chúng tôi sưu tầm được thì nhà thờ Tam Đảo được xây dựng từ năm 1906 đến năm 1912, tọa lạc tại trung tâm thị trấn Tam Đảo, bên con đường dẫn lên đỉnh núi Thiên Nhị. Ban đầu, người Pháp chỉ dựng mô hình nhà sàn lợp lá, đến năm 1937 nhà thờ chính thức được xây dựng lại kiên cố bằng đá và tồn tại cho tới ngày nay. Về mặt kiến trúc, nhà thờ Tam Đảo được xây dựng bằng đá trên một triền đất cao theo mô hình kiến trúc Gothic. Nhà thờ cổ có hai tầng với tầng nền cao 10m. Tầng dưới của tòa nhà rộng rãi, có nhiều lối đi bên cạnh mặt đường lớn, ở hai bên sườn nhà với những bậc đá dẫn lên tầng trên. Lên tầng 2 sẽ có một khoảng sân rộng có thể chứa được 100 người đứng hóng mát hoặc cầu nguyện mỗi khi hoàng hôn về. Bên trong nền tầng hai có một tòa thánh đường rộng 286m2 (dài 26m, rộng 11m) được xây dựng từ năm 1937 để giáo dân xứ Tam Đảo làm lễ cầu kinh, liền đó là gian tháp chuông cao vút đứng chọc trời.


Ngôi thánh đường xây dựng theo kiến trúc kiểu Gothic, nổi trên nền rừng thông do người Pháp trồng, xanh ngắt trên sườn núi Nhà Thờ. Thánh đường im lìm soi bóng xuống thung lũng đầy những biệt thự, nhà nghỉ, hàng quán. Lúc bấy giờ thánh đường có một tu viện nơi khoảng 100 vị ẩn tu.


Tháp chuông nhà thờ đá cổ Tam Đảo uy nghiêm.

Trong kháng chiến chống Pháp, thực hiện chính sách tiêu thổ kháng chiến của cách mạng Việt Nam, nhân dân đã di tản khỏi thị trấn, mọi biệt thự đều bị phá hủy; riêng nhà thờ được Bác Hồ chỉ thị phải giữ nguyên vẹn, không được xâm phạm vào tín ngưỡng của dân... nhờ vậy giữ được một kiến trúc đậm nét văn hóa. Từ năm 1954, chính quyền trưng dụng nhà thờ vào việc công.
Ngày 8-8-2008, nhà thờ được trao trả ban Hành giáo xứ đạo Vĩnh Yên. Và Đức cha giáo phận Bắc Ninh đã cử hành làm phép lại cho nhà thờ, khởi công trùng tu, đặt tên cho nhà thờ là “Nữ vương Hòa bình”. Ngày 02-9-2008, lần đầu tiên nhà thờ cổ Tam Đảo chính thức tổ chức buổi dâng lễ tạ ơn, với hơn 2.000 giáo dân tham dự.


Nhà thờ những năm mới  dựng

Ngày nay, đứng ở thung lũng Tam Đảo, bất cứ nơi nào cũng nhìn thấy nhà thờ đá, nhất là cái tháp chuông, như một người trầm mặc in hình giữa rừng thông vi vút lá gió trên sườn núi. Nhà thờ có một khoảng sân khá rộng. Khoảng sân nầy một mặt dài theo hông nhà thờ, mặt kia nằm “chon von” phía đường lộ. Để đảm bảo an toàn cho tín hữu, phía đường lộ được xây dựng một vòm cửa bằng đá xanh. Vòm cửa nào cũng có hình bán nguyệt, có mặt bằng để khách ngồi nhìn ngắm thị trấn bên dưới. Thị trấn xinh đẹp mà vòm cửa cũng đẹp xinh - có thể xem là một tác phẩm mỹ thuật làm tôn vẻ đẹp vốn có của nhà thờ.



Từ cửa vòm nhìn xuống thị trấn Tam Đảo đẹp và yêu dấu.

Với những nét đặc trưng quý hiếm đó, nhà thờ đá cổ là một điểm tham quan lý thú, thu hút bất cứ vị khách nào khi đến nghỉ ngơi Tam Đảo. Đến viếng nhà thờ bất cứ thời điểm nào trong ngày, khách cũng đều thấy vẻ đẹp của nó, mỗi tiết trời một vẻ đẹp khác nhau. Buổi sáng se se lạnh với sương mù lãng đãng vây quanh. Buổi trưa trời hanh heo nhưng gió núi thổi lùa tạo cảm giác dễ chịu. Buổi chiều lâng lâng với mùa thu lãng mạn. Buổi tối sương giăng dầy đặc, lạnh run.


Nhờ thờ thu hút khách thăm quan về nét cổ kính và những đường nét nghệ thuật

Thật là kỳ diệu! Đặc biệt ai cũng thích thú khi tận tay sờ vào những phiến đá xanh rêu “cổ tích”, được chụp những bức ảnh đẹp kỷ niệm chuyến đi nhiều thơ mộng, lãng mạn ở cái thung lũng diễm tuyệt nầy với ngôi thánh đường cổ kính tuy mang đậm phong cách kiến trúc phương Tây nhưng lại đằm thắm hồn Việt. Vì, nhà thờ đá Tam Đảo có giá trị lịch sử đáng trân trọng. Đây là một trong bốn nhà thờ đá nổi tiếng ở nước ta, là: nhà thờ đá cổ Sa Pa (Lào Cai), nhà thờ đá Nha Trang (Khánh Hòa), nhà thờ đá Phát Diệm (Ninh Bình).

Ngày nay, du khách đến Tam Đảo tham quan nghỉ mát, dường như không ai không ghé thăm ngôi nhà thờ. Một điều đặc biệt là, dù đứng bất kỳ nơi nào trong thị trấn chúng ta cũng dễ dàng nhìn thấy toàn cảnh kiến trúc của nhà thờ. Ở đây, suốt ngày mây bay lững lờ, có lúc từng đám mây sà đậu trên mái ngói nhà thờ. Cũng có lúc mây bao phủ dày đặc, toàn cảnh thị trấn chỉ nhìn thấy được chiếc tháp chuông của nhà thờ còn lại cao vút.