Thứ Hai, 18 tháng 11, 2013

Vẻ đẹp miền sơn cước - Cao nguyên đá Đồng Văn

Cao Nguyên đá Đồng Văn một vẻ đẹp vùng sơn cước đã làm rung động nhiều con tim du khách đến đây. ừ tháng 4 năm 2010, hồ sơ cao nguyên đá Đồng Văn được đệ trình UNESCO công nhận là công viên địa chất toàn cầu. Đây cũng là công viên địa chất toàn cầu đầu tiên của Việt Nam.

Với hàng loạt di sản về địa chất, địa tầng, kiến trúc cùng những nét văn hóa độc đáo của đồng bào vùng cao, Cao nguyên đá Đồng Văn mang một vẻ đẹp hoang sơ, tinh khiết và đầy bí ẩn.

Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể bảo tồn tôn tạo và phát huy giá trị Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn giai đoạn 2012-2020, tầm nhìn 2030.

Vẻ đẹp tiềm ẩn miền sơn cước



Cao nguyên đá Đồng Văn là một trong những vùng đá vôi đặc biệt, chứa đựng những dấu ấn tiêu biểu về lịch sử phát triển vỏ quả đất, những hiện tượng tự nhiên, cảnh quan đặc sắc về thẩm mỹ, tính đa dạng sinh học cao và truyền thống văn hóa lâu đời của cộng đồng cư dân bản địa.

Cao nguyên đá Đồng Văn có đủ các yếu tố hội tụ để trở thành công viên Địa chất toàn cầu: diện mạo địa chất khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên phong phú; có bản sắc văn hoá cũng hết sức độc đáo và ấn tượng như văn hoá của dân tộc Mông, Lô Lô, Pu Péo, Dao. Cao nguyên đá cũng là nơi có nhiều di tích danh thắng quốc gia đã được công nhận như: Di tích kiến trúc nhà Vương, Cột cờ Lũng Cú, phố cổ Đồng Văn, đèo Mã Pì Lèng, núi Đôi Quản Bạ v.v.

Trải qua hơn 100km đường đèo với những đoạn cua tay áo gấp đến chóng mặt giữa một bên là vực sâu và một bên là từng lớp núi đá tai mèo, khung cảnh hoang sơ và hùng vĩ của Cao nguyên đá Đồng Văn hiện ra trong mờ mịt khói mây khiến chúng tôi thực sự choáng ngợp.

Đứng trên đỉnh dốc Mã Pì Lèng, dòng sông Nho Quế xanh biếc như một dải lụa vắt qua núi khiến cảnh tượng miền đất này mang nét kỳ ảo và nên thơ. Cao nguyên đá Đồng Văn đẹp đến ngỡ ngàng từ những căn nhà cheo leo trên núi đá của đồng bào Mông đến những thửa ruộng bậc thang trải dài theo dốc núi.

Vẻ đẹp của miền đất còn được đồng bào dân tộc nơi đây tô điểm thêm bằng những ngôi nhà trình tường (nhà làm bằng đất), hàng rào bằng đá và cả những trang phục dân tộc mang nhiều màu sắc vui tươi, độc đáo.

Cao nguyên đá Đồng Văn, tỉnh Hà Giang là vùng núi đá cao trên 1.000 mét bao gồm bốn huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh và Quản Bạ với diện tích hơn 2.300km2.

Nơi đây hiện có hơn 250.000 dân sinh sống với 17 dân tộc thiểu số, chiếm 90% dân số cả vùng, trong đó dân tộc Mông chiếm 70% số dân, lên đến hơn 230.000 người. Đây là vùng tập trung người Mông đông nhất cả nước.

Theo đánh giá của Hội đồng tư vấn Mạng lưới Công viên Địa chất toàn cầu (UNESCO), Cao nguyên đá Đồng Văn là một trong những vùng đá vôi đặc biệt, chứa đựng những dấu ấn tiêu biểu về lịch sử phát triển vỏ Trái Đất, những hiện tượng tự nhiên, cảnh quan đặc sắc về thẩm mỹ, tính đa dạng sinh học cao và truyền thống văn hóa lâu đời của cộng đồng cư dân bản địa.

Cao nguyên đá Đồng Văn hội tụ một loạt hệ thống di sản độc đáo như Di sản địa chất với rừng hóa thạch Huệ biển Cán Chu Phìn, nghĩa địa hóa thạch Làn Chải, điểm hóa thạch Ngã ba Lũng Pù-Khau Vai-Mèo Vạc, điểm hóa thạch Tay cuộn Ma Lé, điểm hóa thạch Trùng thoi (thị trấn Đồng Văn).

Di sản địa tầng gồm mặt cắt địa chất Lũng Cú-Ma Lé, ranh giới thời địa tầng Frasni-Famen tại đèo Si Phai; Di sản địa mạo với danh thắng núi đôi Quản Bạ, tháp kim Pải Lủng, thung lũng Thủy Mặc, rừng đá Khâu Vai… cùng rất nhiều di sản kiến trúc-lịch sử-văn hóa-danh thắng như phố cổ Đồng Văn, di tích Nhà Vương, thị trấn Phó Bảng…, các thôn văn hóa dân tộc và làng văn hóa du lịch.

Mặc dù có tiềm năng du lịch lớn nhưng Đồng Văn vẫn chưa khai thác được triệt để những lợi thế này. Trong năm 2012, lượng khách du lịch đến đây chỉ đạt 330.000 khách, trong đó chỉ có chưa đến 20.000 khách quốc tế.

Bên cạnh đó, mức chi tiêu của khách du lịch khi đến đây chỉ dao động từ 15-25 USD/ ngày/khách, thấp hơn nhiều so với mức chi tiêu trung bình của khách du lịch đến Việt Nam (60-70 USD/ngày/khách).

Bảo tồn di sản đồng hành với phát triển du lịch

Hiện tại, ngành Văn hoá Thể thao và Du lịch Hà Giang đang nỗ lực phát huy tối đa các tiềm năng du lịch và các bản sắc văn hoá dân tộc ở trên cao nguyên đá; đồng thời giữ gìn các di sản thiên nhiên vốn có. Hà Giang đã cấm khai thác đá, hang động, nhũ đá và tất cả các công việc liên quan đến di sản Công viên địa chất toàn cầu. Tỉnh coi đây là động lực, tiền đề tốt đẹp nhất cho việc thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quan chiêm ngưỡng, du lịch trên cao nguyên đá.

Tỉnh Hà Giang đang thực hiện việc cắm biển di tích và nâng cao năng lực nhận thức của cộng đồng các dân tộc, tạo điều kiện phát triển kinh tế, góp phần nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc vùng cao. Cùng với đó, đồng bào vùng Cao nguyên đá Đồng Văn- những chủ nhân của di sản thế giới mới có điều kiện chung tay bảo vệ di sản quí giá của nhân loại.

Tiến sỹ Nguyễn Lê Huy, Trưởng Ban quản lý Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn trăn trở, Cao nguyên đá Đồng Văn là một trong những vùng khó khăn nhất cả nước. Những tài nguyên phục vụ dân sinh và kinh tế như đất canh tác và nguồn nước sinh hoạt, nước canh tác, chất đốt trên địa bàn còn rất thiếu thốn. Hạ tầng cơ sở như hệ thống giao thông, hạ tầng du lịch cũng bị ảnh hưởng rất nhiều do địa hình của cao nguyên đá.

Bên cạnh đó, đời sống, trình độ nhận thức về du lịch của người dân, đặc biệt là các dân tộc thiểu số còn kém. Nguồn nhân lực cho ngành du lịch có chất lượng thấp, chưa đảm bảo yêu cầu phát triển đã tác động không nhỏ đến chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch của Đồng Văn. Hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch chưa thực sự được đầu tư nên chưa đạt hiệu quả cao.

Nhận thức được những khó khăn trên, các cơ quan chuyên môn của tỉnh Hà Giang cùng với sự giúp đỡ của đơn vị tư vấn là trường Đại học Quốc gia Hà Nội đã xây dựng quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Công viên địa chất Đồng Văn với trọng tâm chủ yếu gồm hai phần: Bảo tồn di sản, nghiên cứu khoa học và phát triển du lịch.

Việc xây dựng quy hoạch theo hướng bảo tồn, phát huy giá trị di sản, trước hết nhằm thực hiện cam kết với cộng đồng quốc tế về bảo tồn di sản địa chất, di sản văn hóa và địa sinh thái của Cao nguyên đá Đồng Văn.

Tiếp theo là khai thác giá trị của các di sản phục vụ phát triển du lịch, coi du lịch là sinh kế mới cho cộng đồng các đồng bào dân tộc trên vùng cao nguyên đá. Đây là định hướng mô hình mới của mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu (UNESCO) trao riêng cho Đồng Văn bởi khác với các công viên địa chất khác trên thế giới thường được chuyển từ các khu du lịch sang nên sẵn có cơ sở hạ tầng du lịch tốt lại không có nhiều cư dân sinh sống quanh khu vực.


Công viên Đồng Văn có tới hơn 250.000 dân sinh sống. Các bước trên cũng nhằm đáp ứng cho việc đánh giá tư cách thành viên của Đồng Văn trong Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu vào năm 2014.

Theo tiến sỹ Nguyễn Lê Huy, trong hai năm qua kể từ khi Cao nguyên đá Đồng Văn được công nhận là Công viên địa chất toàn cầu, tỉnh Hà Giang đã triển khai một số chương trình quảng bá hình ảnh qua kết nối trang web của Ban quản lý Công viên địa chất Đồng Văn với các trang điện tử của các cơ quan truyền thông, du lịch, Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam, các đại sứ quán các nước tại Việt Nam nhằm đưa thông tin về vùng Cao nguyên đá đến gần hơn với khách du lịch. Bước đầu, những hoạt động trên cũng có kết quả khả quan.

Hiện nay, tỉnh cũng đang xây dựng dự án quảng bá hình ảnh về Công viên địa chất Đồng Văn và tỉnh Hà Giang qua hai cảng sân bay Nội Bài và Tân Sơn Nhất, trong đó dự kiến thành lập trung tâm thông tin tại Sân bay Nội Bài.

Ban Quản lý Công viên địa chất Đồng Văn cũng đã xây dựng các dự án giới thiệu kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư cho Cao nguyên đá Đồng Văn. Dự kiến trong năm nay, một số dự án xây dựng khách sạn, khu dịch vụ sẽ bước đầu được triển khai tại đây.

Hy vọng trong tương lai không xa, Cao nguyên đá Đồng Văn sẽ trở thành một trong những điểm đến yêu thích của khách du lịch trong nước cũng như quốc tế khi đến Hà Giang, nơi địa đầu Tổ quốc.

Cao Nguyên đá Đồng Văn là niềm tự hào của ngành du lịch, cũng là điểm thu hút khách quốc tế đến đây khá nhiều. Với những lợi thế về địa hình đồi núi, những còn đường vòng vèo sẽ càng thu hút khách đến nơi đây.

Ghé thăm nhà thờ đá cổ ở Tam Đảo

Tam Đảo là một dãy núi đá ở vùng Đông Bắc Việt Nam nằm trên địa bàn ba tỉnh Vĩnh Phúc. Gọi là Tam Đảo, vì ở đây có ba ngọn núi cao nhô lên trên biển mây, đó là Thạch Bàn, Thiên Thị và Máng Chỉ. Ngọn cao nhất có độ cao tuyệt đối là 1.591 m. là một thung lũng hình lòng chảo. Ở đây có một ngọn núi có tên gọi Nhà Thờ, vì sát chân núi nầy có một ngôi nhà thờ bằng đá cổ.


Theo tư liệu, năm 1902, người Pháp khám phá ra thung lũng rộng 253 hecta, trên độ cao 900 mét, một ngày có bốn mùa xinh đẹp tuyệt vời ở Tam Đảo (Vĩnh Phúc) nầy. Họ nhanh chóng bắt tay biến Tam Đảo thành nơi nghỉ dưỡng lý tưởng bậc nhất Đông Dương, dành cho các quan chức của họ. Dưới bàn tay của phu phen người bản xứ, tù thường phạm, tù chính trị, qua sự cai quản của Pháp, dần dần Tam Đảo mọc lên 145 tòa biệt thự nguy nga, tráng lệ, sân thể thao, sàn nhảy, hồ bơi, nhà thờ, trên những con đường lượn qua các đồi dốc cao thấp thơ mộng. Đó là quyết tâm của người Pháp biến Tam Đảo mang vẻ đẹp phương Tây lãng mạn, là Đà Lạt xứ Bắc, một “Hòn ngọc Đông Dương”. Tuy nhiên, qua chiến tranh, những công trình thấm đẫm mồ hôi, máu và xác người bản xứ ấy nay đã tiêu vong, một số còn “xác”, chỉ riêng nhà thờ còn tồn tại.


Cầu thang lên nhà thờ tinh xảo và mỹ thuật.

Theo các tài liệu mà chúng tôi sưu tầm được thì nhà thờ Tam Đảo được xây dựng từ năm 1906 đến năm 1912, tọa lạc tại trung tâm thị trấn Tam Đảo, bên con đường dẫn lên đỉnh núi Thiên Nhị. Ban đầu, người Pháp chỉ dựng mô hình nhà sàn lợp lá, đến năm 1937 nhà thờ chính thức được xây dựng lại kiên cố bằng đá và tồn tại cho tới ngày nay. Về mặt kiến trúc, nhà thờ Tam Đảo được xây dựng bằng đá trên một triền đất cao theo mô hình kiến trúc Gothic. Nhà thờ cổ có hai tầng với tầng nền cao 10m. Tầng dưới của tòa nhà rộng rãi, có nhiều lối đi bên cạnh mặt đường lớn, ở hai bên sườn nhà với những bậc đá dẫn lên tầng trên. Lên tầng 2 sẽ có một khoảng sân rộng có thể chứa được 100 người đứng hóng mát hoặc cầu nguyện mỗi khi hoàng hôn về. Bên trong nền tầng hai có một tòa thánh đường rộng 286m2 (dài 26m, rộng 11m) được xây dựng từ năm 1937 để giáo dân xứ Tam Đảo làm lễ cầu kinh, liền đó là gian tháp chuông cao vút đứng chọc trời.


Ngôi thánh đường xây dựng theo kiến trúc kiểu Gothic, nổi trên nền rừng thông do người Pháp trồng, xanh ngắt trên sườn núi Nhà Thờ. Thánh đường im lìm soi bóng xuống thung lũng đầy những biệt thự, nhà nghỉ, hàng quán. Lúc bấy giờ thánh đường có một tu viện nơi khoảng 100 vị ẩn tu.


Tháp chuông nhà thờ đá cổ Tam Đảo uy nghiêm.

Trong kháng chiến chống Pháp, thực hiện chính sách tiêu thổ kháng chiến của cách mạng Việt Nam, nhân dân đã di tản khỏi thị trấn, mọi biệt thự đều bị phá hủy; riêng nhà thờ được Bác Hồ chỉ thị phải giữ nguyên vẹn, không được xâm phạm vào tín ngưỡng của dân... nhờ vậy giữ được một kiến trúc đậm nét văn hóa. Từ năm 1954, chính quyền trưng dụng nhà thờ vào việc công.
Ngày 8-8-2008, nhà thờ được trao trả ban Hành giáo xứ đạo Vĩnh Yên. Và Đức cha giáo phận Bắc Ninh đã cử hành làm phép lại cho nhà thờ, khởi công trùng tu, đặt tên cho nhà thờ là “Nữ vương Hòa bình”. Ngày 02-9-2008, lần đầu tiên nhà thờ cổ Tam Đảo chính thức tổ chức buổi dâng lễ tạ ơn, với hơn 2.000 giáo dân tham dự.


Nhà thờ những năm mới  dựng

Ngày nay, đứng ở thung lũng Tam Đảo, bất cứ nơi nào cũng nhìn thấy nhà thờ đá, nhất là cái tháp chuông, như một người trầm mặc in hình giữa rừng thông vi vút lá gió trên sườn núi. Nhà thờ có một khoảng sân khá rộng. Khoảng sân nầy một mặt dài theo hông nhà thờ, mặt kia nằm “chon von” phía đường lộ. Để đảm bảo an toàn cho tín hữu, phía đường lộ được xây dựng một vòm cửa bằng đá xanh. Vòm cửa nào cũng có hình bán nguyệt, có mặt bằng để khách ngồi nhìn ngắm thị trấn bên dưới. Thị trấn xinh đẹp mà vòm cửa cũng đẹp xinh - có thể xem là một tác phẩm mỹ thuật làm tôn vẻ đẹp vốn có của nhà thờ.



Từ cửa vòm nhìn xuống thị trấn Tam Đảo đẹp và yêu dấu.

Với những nét đặc trưng quý hiếm đó, nhà thờ đá cổ là một điểm tham quan lý thú, thu hút bất cứ vị khách nào khi đến nghỉ ngơi Tam Đảo. Đến viếng nhà thờ bất cứ thời điểm nào trong ngày, khách cũng đều thấy vẻ đẹp của nó, mỗi tiết trời một vẻ đẹp khác nhau. Buổi sáng se se lạnh với sương mù lãng đãng vây quanh. Buổi trưa trời hanh heo nhưng gió núi thổi lùa tạo cảm giác dễ chịu. Buổi chiều lâng lâng với mùa thu lãng mạn. Buổi tối sương giăng dầy đặc, lạnh run.


Nhờ thờ thu hút khách thăm quan về nét cổ kính và những đường nét nghệ thuật

Thật là kỳ diệu! Đặc biệt ai cũng thích thú khi tận tay sờ vào những phiến đá xanh rêu “cổ tích”, được chụp những bức ảnh đẹp kỷ niệm chuyến đi nhiều thơ mộng, lãng mạn ở cái thung lũng diễm tuyệt nầy với ngôi thánh đường cổ kính tuy mang đậm phong cách kiến trúc phương Tây nhưng lại đằm thắm hồn Việt. Vì, nhà thờ đá Tam Đảo có giá trị lịch sử đáng trân trọng. Đây là một trong bốn nhà thờ đá nổi tiếng ở nước ta, là: nhà thờ đá cổ Sa Pa (Lào Cai), nhà thờ đá Nha Trang (Khánh Hòa), nhà thờ đá Phát Diệm (Ninh Bình).

Ngày nay, du khách đến Tam Đảo tham quan nghỉ mát, dường như không ai không ghé thăm ngôi nhà thờ. Một điều đặc biệt là, dù đứng bất kỳ nơi nào trong thị trấn chúng ta cũng dễ dàng nhìn thấy toàn cảnh kiến trúc của nhà thờ. Ở đây, suốt ngày mây bay lững lờ, có lúc từng đám mây sà đậu trên mái ngói nhà thờ. Cũng có lúc mây bao phủ dày đặc, toàn cảnh thị trấn chỉ nhìn thấy được chiếc tháp chuông của nhà thờ còn lại cao vút.

Nhà thờ con gà Đà Lạt cuốn hút du khách

Nhà thờ con gà còn là một trong những công trình kiến trúc tiêu biểu, cổ xưa nhất thành phố này do người Pháp để lại. Sở dĩ có cái tên như thế vì trên đỉnh tháp chuông có hình con gà lớn, biểu tượng của sám hối (theo kinh Tân ước). Đến nơi đây bạn sẽ không thể rời mắt khỏi những đường nét nghệ thuật tài hoa của người thợ và sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và nhà thờ.

Nhà thờ Con gà được thiết kế theo “kiểu mẫu” của các nhà thờ Công giáo Rôma ở châu Âu, tiêu biểu cho trường phái kiến trúc Roman. Với vẻ đẹp thân thương và mang đậm chất công giáo, nhà thờ đã mang đến cho du khách những trải nghiệm thú vị.


Mặt bằng nhà thờ theo hình chữ thập (giống thánh giá) có chiều dài 65m, rộng 14m, tháp chuông cao 47m. Với độ cao đó, từ tháp chuông của nhà thờ có thể nhìn thấy mọi nơi của thành phố. Cửa chính của nhà thờ hướng về núi Langbiang.


Mặt đứng với phần tháp chuông vươn cao. Những đường nét, chi tiết trên mặt đứng hoàn toàn phỏng theo nguyên gốc của các kiểu mẫu châu Âu. Cửa sổ có vòm cung tròn, các đường nét mạnh mẽ, dứt khoát, tổ chức theo phân vị đứng, mái lợp ngói thạch bản, đặc biệt là tỷ lệ giữa các mảng khối rất hài hòa và chặt chẽ.


Nội thất thánh đường gồm 3 gian: 1 gian lớn ở giữa và 2 gian nhỏ ở hai bên. Mặt cắt công trình thể hiện rõ hệ cuốn theo dạng cung nguyên với dãy cuốn và hệ vòm nôi. Các cột trong nội thất có hệ đầu cột mô phỏng dạng cổ điển kết hợp với tự phát. Cả mặt bằng và mặt đứng đều được thiết kế đối xứng nghiêm ngặt theo lối cổ điển.


Mặt đứng với phần tháp chuông vươn cao. Những đường nét, chi tiết trên mặt đứng hoàn toàn phỏng theo nguyên gốc của các kiểu mẫu châu Âu. Cửa sổ có vòm cung tròn, các đường nét mạnh mẽ, dứt khoát, tổ chức theo phân vị đứng, mái lợp ngói thạch bản, đặc biệt là tỷ lệ giữa các mảng khối rất hài hoà và chặt chẽ.


Phần áp mái trang trí bằng 70 tấm kính màu do xưởng Louis Balmet ở Grenoble (Pháp) chế tạo, làm cho khung cảnh thánh đường thêm phần huyền ảo.
Tường chịu lực xây dựng bằng gạch đá dày khoảng 30 – 40 cm. Trên tường trong nội thất được gắn các bức phù điêu với kích thước 1m x 0,8m, làm bằng vật liệu xi măng và sắt (do nhà điêu khắc Xuân Thi thể hiện). Riêng phần tường ngoài luôn được quét sơn màu hồng, càng tôn thêm sự trang nghiêm của một công trình kiến trúc tôn giáo.


Trên thánh giá có tượng một con gà (cách mặt đất 27m) bằng hợp kim nhẹ rỗng bên trong được tráng phủ một lớp hoá chất đặc biệt đồng dài 0,66m, cao 0,58m quay quanh một trục bạc đạn để chỉ hướng gió. Con gà có thể là biểu tượng của nước Pháp (Coq gaulois: gà trống xứ Gaulle),có thể là biểu tượng của sự sám hối, theo đoạn Tân Ước kể lại việc Chúa Giê-su quở trách Phê-rô (một trong 12 tông đồ của Người): "Ðêm nay gà chưa gáy, con sẽ chối Ta ba lần...".


Cột thu lôi, đế bầu tròn đỡ con gà và chữ thập chỉ bốn hướng đông-tây-nam-bắc được sửa chữa, thay mới vài lần. Con gà xoay theo hướng gió trên một vòng bạc rất nhẹ. Người dân bản xứ kháo nhau rằng con gà là đài dự báo thời tiết rất hiện đại, con gà quay chiều nào là gió mưa, là nắng tạnh. Thực ra vì con gà ở trên cao, để phòng gió tạt gãy đổ người ta đã thiết kế cho nó quay hướng theo chiều gió, và thế là con gà quay hướng nào, gió hướng ấy.


Vào dịp Lễ Giáng sinh hàng năm, nơi đây thu hút rất nhiều người cả trong và ngoài đạo đến dự lễ tham quan. Ngoài ra, ở Đà Lạt còn rất nhiều nhà thờ nhỏ hơn trong đó Domaine de Marie (Lãnh địa Đức Bà) và nhà thờ Cam Ly mang những nét đặc trưng riêng 


Nội thất thánh đường gồm 3 gian: 1 gian lớn ở giữa và 2 gian nhỏ ở hai bên. Mặt cắt công trình thể hiện rõ hệ cuốn theo dạng cung nguyên với dãy cuốn và hệ vòm nôi. Các cột trong nội thất có hệ đầu cột, mô phỏng dạng cổ điển kết hợp với tự phát. Cả mặt bằng và mặt đứng đều được thiết kế đối xứng nghiêm ngặt theo lối cổ điển.

Nhà thờ là địa điểm du lịch khá thú vị ở Đà Lạt, du khách đến đây cũng phải trầm trồ về những đường nét tinh xảo của nghệ thuật và hình ảnh sẽ làm ấn tượng với du khách.

Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia : Phủ Quảng Cung

 Phủ Quảng Cung (Phủ Nấp) nay thuộc thôn Tiến Thắng xã Yên Đồng, Ý Yên, tỉnh Nam Định. Phủ Quảng Cung là một trong những trung tâm của Đạo Mẫu Việt Nam thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh lần thứ nhất. Đây là một quần thể "Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh" đã được UBND tỉnh Nam Định xếp hạng năm 2005.

Quần thể di tích lịch sử văn hóa Phủ Quảng Cung hiện nay bao gồm: Phủ chính thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại thôn Tiến Thắng (trước đây là thôn Quảng Nạp) và khu quần thể di tích Đền Đáy tại thôn Nam Đồng thuộc địa phận xã Yên Đồng, Ý Yên, tỉnh Nam Định.



Quần thể di tích lịch sử văn hóa Phủ Quảng Cung đã được đón nhận Bằng bảo trợ di sản của Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam vào ngày 6/4/2011.

Lễ hội Phủ Quảng Cung được tổ chức từ ngày mùng 1 đến mùng 10 tháng 3 âm lịch.
Ngày 11/4, tỉnh Nam Định đã tổ chức lễ đón nhận Bằng công nhận di lích lịch sử văn hóa cấp quốc gia của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho di tích Phủ Quảng Cung (hay còn gọi là Phủ Nấp) thuộc xã Yên Đồng, huyện Ý Yên. 
Đây là một trong những nơi thờ phụng ghi dấu lần giáng sinh đầu tiên của Thánh Mẫu Liễu Hạnh - một trong Tứ Bất Tử của tín ngưỡng Việt Nam.

Nằm cách Phủ Dầy, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định khoảng 7km, Phủ Quảng Cung thuộc thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên được xây dựng trên nền nhà sinh ra Tiên Mẫu ngay sau khi bà mất.

Theo “Vân Hương Thánh Mẫu tam thế giáng sinh,” Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh lần thứ nhất vào đêm mùng 6/3 năm Giáp Dần (1434) thời Lê Thái Tông. Và đến năm Quý Tỵ (1473), niên hiệu Hồng Đức năm thứ tư (Lê Thánh Tông), ngày 30/2, Phạm Thị Tiên Nga, tức Thánh Mẫu Liễu Hạnh hóa về Thượng giới.

 Người dân trong vùng ấp Quảng Nạp nhớ ơn đức hạnh của bà đã cùng xây dựng đền miếu Quảng Cung, ngày đêm phụng thờ. Các vua triều Lê và triều Nguyễn sau này đã sắc phong, rồi cho nhân dân mở rộng tôn tạo thành Phủ Quảng Cung nguy nga tráng lệ.

 Trong Phủ vẫn còn đôi câu đối ghi lại dấu ấn này: “Hồng Đức tứ niên sơ lập miếu/Duy Tân ngũ tuế sửa linh từ” nghĩa là "Năm thứ tư niên hiệu Hồng Đức 1743 lập miếu thờ, năm thứ năm niên hiệu Duy Tân sửa lại đền thiêng."

Phủ Quảng Cung được xây dựng cách đây gần 6 thế kỷ và đã trải qua nhiều lần tôn tạo. Do tác động của thiên nhiên và chiến tranh, Phủ bị xuống cấp nhiều.

 

Đến năm 1973, nhân dân địa phương đã hạ giải công trình để lấy vật liệu xây dựng các công trình phúc lợi của xã. Năm 1994, được sự quan tâm của tỉnh, huyện và Ủy ban Nhân dân xã Yên Đồng, cùng với sự tri ân công đức của nhân dân địa phương và quý khách thập phương, Phủ Quảng Cung đã được phục dựng lại trên nền đất phủ xưa.

Trong Phủ Quảng Cung hiện nay còn giữ được pho tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh bằng đồng và 64 que thẻ in ấn bằng gỗ... Đặc biệt, tượng Mẫu Liễu Hạnh được xem là một trong những tác phẩm độc đáo nhất trong hệ thống các điêu khắc thờ Mẫu ở Việt Nam.

Không giống như tượng Mẫu Liễu được thờ tại các nơi khác, tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại Phủ Nấp có nhiều điểm khác biệt, độc đáo. Mẫu Liễu có dáng ngồi xếp bằng rất khoan thai trong trang phục giản dị, nét mặt bình thản. Các nếp áo được tạo tác một cách giản dị với hai lớp áo choàng ở ngoài và một chiếc yếm đào phía bên trong làm cho pho tượng trở nên sống động, gần gũi

Phủ quang Cung với lịch sử lâu đời qua sự giữ gìn và bảo tồn của người dân địa phương. Phủ quang Cung là niềm tự hào của Huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

Độc đáo đặc sản Phú Quốc

Đảo Phú Quốc - hòn đảo lớn nhất Việt Nam, là có thể thưởng thức mặt trời lặn trên đại dương, rất đáng đến một lần trong đời. Không chỉ có biển mênh mông, tươi mát; hòn đảo ngọc này còn có núi đồi và rừng nguyên sinh xanh mướt bao phủ, với nhiều thác, suối chảy ngoạn mục. Nó cũng giữ riêng cho mình những đặc sản hiếm nơi đâu có được.

 

Nấm Tràm

 

Nấm tràm Phú Quốc, cả năm chỉ có một lần trên đảo. Chúng mọc nhanh thật nhanh sau những cơn mưa đầu mùa trong các rừng tràm, và hết mùa cũng thật nhanh. Chỉ khoảng hơn một tháng thôi, nên phải tìm hiểu kĩ lắm mới ra đúng mùa để thưởng thức nấm tươi nấm mới từ rừng mang về nó ngon đến thế nào.

 


 

 

Nấm tràm mang vị đăng đắng đặc biệt, khách duyên lắm mới gặp mùa 

 

Nấm tràm nấu với gì cũng ngon. Nấm tươi được nấu với hải sản như tôm, cá, mực, đặc biệt là chả cá viên. Nấm khô thì xào với bào ngư hoặc hải sâm. Hay thậm chí nấu nấm tràm với thịt gà, thịt heo và trứng cũng… “bá cháy”.

 

Những chiếc nấm nhỏ khi qua chế biến rất giòn xốp, và càng nhai càng thấy vị đắng nhẹ lan dần, lan dần. Ăn miếng đầu tiên có thể ngạc nhiên, miếng thứ hai, thứ ba… thì thích thú và sau đó cứ muốn ăn mãi, ăn nữa, ăn hoài không chán.

 

Dù vậy, khách phương xa đến du lịch Phú Quốc có thể thưởng thức nấm tràm bất cứ lúc nào tuy không phải nấm tươi mà là nấm khô và đông lạnh.

 

Bánh tét mật cật

 

Đây là món bánh “độc quyền” một trong những đặc sản Phú Quốc, của huyện đảo này. Thường người ta chỉ dùng lá mật cật để chằm nón lá, chẳng hiểu vì lí do gì mà dân ở đây lại dùng nó gói bánh tét thành đòn hình tam giác.

 

 

Bánh tét mật cật, thứ bánh bình thường nhưng được sáng tạo thành đặc sản của riêng Phú Quốc

 

Lá mật cật hẹp, không to như lá chuối nên phải thật khéo léo. Và cảng phải cẩn thận vì bánh được cột bằng gân lá, chẳng thể nào mềm như lạt tre. Buộc chặt quá thì bánh chín không đều, lỏng quá thì bánh nong nước, nhão.

 

Cũng là chiếc bánh tét bình thường với nếp, nhân đậu xanh, thịt heo thôi nhưng gói bằng thứ lá đặc biệt này làm cho bánh cũng mang vẻ đặc biệt hơn.

 

Bánh mang màu xanh ngọc bích của nước cốt lá ngót và lá dứa ngon lành, thêm mùi thơm lừng khó cưỡng. Khi ăn, gạo quyện với nhân đậu xanh bùi, thịt mỡ béo, mùi lá dứa thơm, rất tuyệt vời.

 

Món nhum

 

Những “quả cầu gai” sau khi chế biến thành những món ngon, được đấng mày râu rất “ưa” bởi sự bổ dưỡng của nó. Từ nhum, người ta làm thành được kha khá món từ xào, nấu cháo, ăn mù tạt…

 

 

Nhum Phú Quốc là món khoái khẩu cho các “ông”! 

 

Cách ăn phổ biến nhất là nhum nướng. Nhum sau khi sơ chế được cho thẳng lên bếp than hồng rực, đến khi mùi tỏa ra là được. Người ăn, cứ thế nạo phần thịt bên trong và chấm muối tiêu ớt chanh sẽ cảm nhận được nhum béo béo thơm thơm. Ai thích lạ hơn thì cho mù tạt vào và ăn sống, uống thêm cốc bia thì thú lắm.

 

Ngoài ra, món cháo nhum hay nhum xào cũng ngon không kém, lại giúp nhanh lấy lại sức. Đặc biệt, là chả nhum. Thịt nhum tươi với các loại gia vị tiêu, hành, nước mắm ngon trộn đều, cho vào chiên dùng với bánh tráng nướng, rau sống, chuối chát chấm với mắm Phú Quốc quả là chẳng thể nào mà quên được.

 

Lưu lại Phú Quốc, mỗi ngày chọn một món nhum là sẽ hết sợ mấy con gai góc nhọn hoắt này ngay.

 

Còi biên mai nướng

 

Cả con sò biên mai to, nhưng thịt nhão, không ngon, mọi tinh túy chỉ tập trung vào hai lớp cơ thịt nối liền hai mảnh con sò, gọi là “còi”.

 

 

Còi biên mai ngon nhất là món nướng

 

Từ lóng thịt chắc này, người ta chế ra vô vàn các món nhưng đặc biệt ngon và giữ vị thì phải là coi biên mai nướng. Dù là nướng không hay nướng muối ớt thì cùng đậm đà. Vừa hàn huyên, vừa cầm từng xâu còi mai tươi hoặc ướp muối hạt to, đã được đâm nhuyễn vào đó mấy trái ớt đỏ tươi, nướng trên than hồng là trải nghiệm khó quên.

 

Người nướng phải khéo léo, không để lâu quá làm còi bị khô, cứng, chỉ cần vừa chuyển vàng là được. Khi ăn, còi biên mai kết hợp với chao, rau húng, diếp cá, xà lách, chuối chát, dưa leo...

 

Từng miếng còi giòn dai và ngọt quyện với cái mặn mòi của muối hột, cay xé lưỡi của ớt tươi và thơm đặc biệt của chao, rau thơm cho cảm nhận tròn vị khó tả.

 

Khách ngồi bên biển mà ăn món này thì có khi muốn ở lại làm dân đảo luôn.

 

Hồ tiêu và nước mắm Phú Quốc

 

Đến Phú Quốc, sẽ thấy những vườn tiêu nối tiếp nhau. Đây là một đặc sản nữa cần được nhắc đến. Người ta nói, các món trên đảo ăn ngon hơn là nhờ hồ tiêu và nước mắm của đảo quả có lí.

 

 

Hồ tiêu Phú Quốc thơm và cay nồng hơn nhiều loại hồ tiêu đến từ những vùng miền khác! (Ảnh: Internet)

 

Hiếm nơi nào hồ tiêu được thu hoạch từng đợt chín và chủ yếu là bằng thủ công, chọn lựa những quả chín riêng phân ra thành 3 loại: tiêu đỏ, tiêu sọ và tiêu đen như ở đây. Tiêu Phú Quốc nổi tiếng vì vị cay nồng, thơm, đậm hơn nhiều nơi khác. Hạt nào hạt ấy mây mẩy, chắc và đều nhau.

 

 

Nước mắm Phú Quốc đã khẳng định được thương hiệu bằng màu sắc, chất lượng thơm ngon của mình

 

Còn nước mắm - đặc sản Phú Quốc thì khỏi phải nói. Có truyền thống mấy trăm năm, nổi tiếng trong nước và nước ngoài. Nước mắm Phú Quốc chỉ sử dụng duy nhất loại cá cơm làm nguyên liệu với phương thức bí truyền, cho ra thứ vị ngon đậm và màu sắc đẹp, đậm đà khác biệt.

 

Đến Phú Quốc, nhất định phải thưởng thức các món ngon không nơi đâu có và mua tiêu, nước mắm về làm quà.

 

10 món ăn truyền thống của người Hà Nội

Người Hà Nội vốn nổi tiếng với nền ẩm thực giản dị nhưng không kém phần sang trọng và tinh tế. Qua thời gian, những món ăn của vùng đất kinh kỳ không những không bị mất đi mà ngày càng khẳng định được vị thế quan trọng của mình trong nền văn hóa ẩm thực dân tộc Việt. Dưới đây giới thiệu 10 món Hà Nội xưa giản dị, thơm ngon, tồn tại từ bao đời... 

Nhắc đến 
ẩm thực Hà Nội, đầu tiên ta phải nhắc đến phở. “Phở là một thứ quà đặc biệt của Hà Nội, không phải chỉ riêng Hà Nội mới có, nhưng chính là vì chỉ ở Hà Nội mới ngon", nhà văn Thạch Lam đã viết. 



Phở Hà Nội nổi tiếng với bánh phở mềm, nước dùng trong và ngọt, thịt bò mềm, thơm ngậy. Tại Hà Nội, có rất nhiều hàng phở ngon: Phở Sướng - phố Đinh Liệt, phở gia truyền - Bát Đàn, phở Thìn – Lò Đúc, phở Cường – Hàng Muối, phở gánh – vỉa hè phố Hàng Trống... 



Bún chả được mệnh danh là thứ “quà” đặc sắc mà người Hà Nội gửi đến mọi miền đất nước. Chỉ đơn giản là sự thơm ngon của những miếng thịt nướng đủ lửa, cùng vị mắm chua ngọt nhưng cũng đủ níu chân thực khách bốn phương. Bún chả ngõ chợ Đồng Xuân, 14 Hàng Than, ngõ 81 Lạc Long Quân hay vỉa hè ngã tư phố Nguyễn Du – Bà Triệu... là những địa chỉ uy tín cho món ăn này. 



Với gần 20 loại nguyên liệu, bún thang là thứ bún có cách thức chế biến đòi hỏi sự tỉ mỉ, cẩn thận, kỳ công từ người đầu bếp, và cũng là một trong những món ăn đặc trưng chứa đựng vô vàn nét tinh túy của ẩm thực Hà thành. Địa chỉ: Bún thang Cầu Gỗ, 11 Hàng Hòm, 11 Hạ Hồi... 

 

 

 

Món chả cá Lã Vọng là sự kết hợp hoàn hảo giữa các gia vị đặc trưng của Việt Nam như: nghệ, thì là, mắm tôm, nước mắm. Tất cả hòa quyện lại thành món ăn có một không hai, vô cùng thơm ngon và hấp dẫn. Chả cá Lã Vọng luôn nằm trong danh sách những món ăn không thể bỏ qua của du khách nước ngoài khi đến du lịch Hà Nội. Quán nằm ở số 14 Chả Cá.

 

 

 

Bánh cuốn Thanh Trì là một món ngon lâu đời của mảnh đất Kẻ Chợ. Phố Tô Hiến Thành là nơi bạn có thể thưởng thức thứ bánh mỏng tang, trong suốt, thơm mùi gạo quê được phủ lên trên bằng lớp hành phi vàng óng, thơm phức chấm cùng thứ nước mắm pha vừa miệng, thêm vài miếng chả quế nữa là trọn vẹn hương vị bữa ăn.

 

Chả rươi được coi là một “của hiếm” của đặc sản Hà Nội bởi vì rươi chỉ xuất hiện một quãng thời gian rất ngắn trong năm, người Hà Nội nhanh tay mua rươi tươi về để tủ lạnh dùng dần. Chả rươi giòn ngoài, mềm trong, beo béo, thơm ngậy mùi vỏ quýt được bán ở Ô Quan Chưởng, quán Hằng béo - Lò Đúc và phố Gia Ngư.

 

 

 

Chiếc bánh vàng ruộm, bên ngoài được phủ kín bởi vừng rang thơm, khi cầm chiếc bánh lắc nhẹ còn nghe được cả tiếng “lăn” của viên đậu xanh nhỏ bên trong nhân bánh. Sự thú vị này làm lên nét đặc biệt chỉ riêng có ở bánh rán lúc lắc – món ăn Hà Nội cổ truyền của người Hà Thành. Bánh được bán ở cửa hàng ngõ 16A Lý Nam Đế hay 21 Lê Đại Hành.

 

 

 

Bún ốc nguội là 1 món ăn dân dã và chỉ của riêng Hà Nội. Không dễ để tìm địa chỉ bán loại bún này, và rất ít người có thể làm ngon được. Bún ốc nguội ngọt mát, hơi chua dịu, mặn vừa phải, thơm nồng của gừng, cay cay của ớt ăn cùng đĩa bún sợi nhỏ. Một món ăn đầy nhẹ nhàng, mộc mạc mà có sức hút bền lâu. Một số địa chỉ tham khảo: 202F Đội Cấn, số 3 Phù Đổng Thiên Vương, ở đầu Ô Quan Chưởng.

 

 

Người Hà Nội nổi tiếng sành ăn nên đã chế biến thịt nhái thành một thứ đặc sản chỉ riêng của Hà Nội. Những con nhái nhỏ băm cả thịt lẫn xương, giã nhuyễn, rồi trộn với gia vị, sả ớt, lá chanh... chiên ngập trong chảo dầu sôi sục. Miếng chả chín tới, vàng ươm, thơm nức cũng là một trong những món nhậu “đưa rượu” số một. 

 

Địa chỉ: chả nhái bà Cốm ở phố Khương Thượng và quán bà Lương, ngõ 191 phố Khương Thượng.

 

 

Khi những cơn gió heo may báo hiệu thời tiết chuyển mình chào thu cũng là lúc những gánh cốm Vòng theo chân người tỏa đi khắp Hà Nội. Cốm và các đặc sản làm từ cốm, tự bao giờ, đã trở thành một mảng màu xanh mát lành, làm nên bức tranh đẹp về ẩm thực Hà Nội

 

 

Cốm làng Vòng, bánh cốm Hàng Than, cốm xào Đinh Liệt, chả cốm Phất Lộc, xôi cốm chợ Hôm, chè cốm chợ Thành Công... là những món ngon Hà Nội có thể tự hào với bạn bè bốn phương.