Thứ Tư, 13 tháng 11, 2013

Hẹn hò với phố cổ Hội An từ kiếp trước

Chú tôi từng nói, có những nơi chỉ cần chạm chân tới đã thấy bình yên, thấy gần gũi như đã hẹn hò với đất với người từ kiếp trước. Và tôi đã tìm đến phố cổ Hội An theo lời nhắn nhủ của chú rằng: "Đến đó đi, vì sẽ không nuối tiếc”.

Thành phố Hội An nằm ở vùng hạ lưu ngã 3 sông Thu Bồn thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng về phía Nam 28km. Nơi đây xưa kia đã có một thời nổi tiếng với tên gọi Faifoo mà các thương nhân Nhật Bản, Trung Quốc, Bồ Đào Nha, Italia… đã biết đến từ thế kỷ 16, 17.

Từ thời đó, thương cảng đã thịnh vượng, là trung tâm buôn bán lớn của vùng Đông Nam Á, một trong những trạm đỗ chính của thương thuyền vùng Viễn Đông. Cũng nhờ vị trí địa lý thuận lợi nên từ hơn 2000 năm trước, mảnh đất này đã tồn tại và phát triển nền văn hóa Sa Huỳnh muộn. Chính vì sự giao thoa văn hóa từ rất lâu đời này nên Hội An là mảnh đất giàu truyền thống lịch sử cánh mạng và văn hóa, được kết tinh qua nhiều thời đại.

Đến với Hội An là đến với không gian kiến trúc cổ kính và những con người chân thành, nồng nhiệt. Giữa các con phố tấp nập nằm trên các con đường hẹp là một dãy phố nằm sát bờ sông Hoài, soi bóng một góc bức tranh phố cổ xuống dòng sông. Tại đây du khách dễ dàng bắt gặp nhiều dãy nhà hình ống mái ngói phủ rêu, trong nhà treo hoành phi, câu đối và nhiều cột gỗ quý trạm trổ hoa văn cầu kỳ vẫn sáng bóng màu của thời gian.

Để có cái nhìn khái quát về lịch sử Hội An, du khách nên đi thăm quan các bảo tàng Lịch sử - Văn hóa, Bảo tàng gốm sứ mậu dịch, Bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh… Các Hội quán cũng rất hấp dẫn, bởi mỗi địa điểm là một đặc thù kiến trúc khác biệt, tượng trưng cho trường phái kiến trúc của địa phương như Hội quán Triều Châu, Hội quán Phúc Kiến, Hội quán Quảng Đông...

Tôi lang thang ngắm đèn lồng phố cổ, tưởng như mình lạc vào thiên đường lung linh, huyền ảo. Cảm giác yên bình tràn ngập lòng, nên thấy từng ngõ ngách, từng đồ vật nơi đây đều trở lên dịu dàng và quyến rũ đến kỳ lạ. Để được gần gũi hơn với người dân nơi đây, tôi ghé thăm làng gốm Thanh Hà, làng rau Trà Quế, làng mộc Kim Bồng, cảm nhận nét hồn hậu trong nụ cười, ánh mắt. Cái không khí yên bình và mộc mạc, khác xa với nhịp sống tất bật của thế giới hiện đại mà chúng ta đang sống mỗi ngày, khiến tôi thấy nuối tiếc khi phải chào từ biệt Hội An.

Chú tôi gọi điện vào dặn "nhớ ghé quán bên đường ăn bánh quai vạc nhân chả tôm quết nhuyễn, thứ bánh được người Pháp đặt tên là "hoa hồng trắng”, và chớ quên thưởng thức món chè bắp để thấy được vị ngon ngọt rất đặc trưng của Hội An khi lúa ngô được trồng trên đất cồn, tưới nước từ con sông Thu Bồn bình yên ấy”.

Suối cá thần - Thanh Hóa

(Mytour.vn) - Suối Cá thần là tên gọi của một số dòng suối ở miền núi phía tây tỉnh Thanh Hoá, nơi có những đàn cá tập trung sinh sống với mật độ dày đặc, được đồng bào dân tộc Mường, Thái ở địa phương gìn giữ và đã trở thành những danh lam thắng cảnh khá nổi tiếng.

Suối cá thần là nơi linh thiêng, theo người dân nơi đây kể lại bạn đến đó có thể đùa nghịch và chơi với cá nhưng không được bắt cá lên để ăn, bởi khi ăn cá bạn sẽ bị đau bụng hoặc sẽ gặp một vấn đề không may mắn...



Nằm khép mình bên chân núi Trường Sinh hùng vĩ, thuộc bản Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thủy, Thanh Hoá; "suối cá thần" từ lâu luôn ẩn chứa những câu chuyện huyền bí xung quanh nguồn gốc của suối cá…Sự bí ẩn cùng với những câu chuyện mang đậm chất liêu trai đã giữ được vẻ tự nhiên, nguyên sơ "độc nhất vô nhị" của suối cá.

Để vào được suối cá người ta phải đi qua một chiếc cầu treo bắc qua sông Mã. "Suối cá thần" đã làm cho phong cảnh bản Ngọc trở nên "sơn thủy hữu tình".

 Cá ở đây rất hiền, bơi một cách chậm chạp dưới dòng suối tĩnh lặng và trong vắt. Du khách sẽ luôn cảm thấy thoải mái trước nhịp sống rất chậm ở nơi đây, họ có thể cho cá ăn bỏng ngô, bim bim, các loại rau...Một số người hiếu kỳ còn lội xuống dòng suối vuốt ve sống lưng "cá thần".


Thỉnh thoảng người ta còn đựợc chiêm ngưỡng hình ảnh những con cá to lớn nhảy lên khỏi mặt nước trông rất thích mắt. Đến bản Ngọc du khách không chỉ được tham quan "suối cá thần", mà còn có cơ hội thưởng thức các món ăn đặc sản miền sơn cước như cơm lam, ngô nướng. 

Tuy " Suối cá thần" được đánh giá là có tiềm năng du lịch nhưng trên thực tế vẫn chưa được đầu tư đúng mức và đồng bộ như những điểm du lịch khác trong tỉnh. Cơ sở hạ tầng còn đơn giản, đội ngũ hướng dẫn viên, nhiếp ảnh chưa được đào tạo bài bản, các nhà nghỉ, nhà trọ rất ít, chất lượng còn rất thấp.

Ngoài " Suối cá thần" (Mó Ngọc)  Cẩm Lương, trên địa bàn huyện Cẩm Thủy còn có " suối cá thần" (Mó Đóng) thuộc bản Rùng, xã Cẩm Liên cách thị trấn Cẩm Thủy 15km về phía Tây. Hai suối cá này ở hai bờ khác nhau của sông Mã. Gần đây nhất người dân đã phát hiện thêm một "suối cá thần" ở bản Chiềng Ban, xã Văn Nho, huyện Bá Thước - đây là "suối cá thần" thứ 3 được phát hiện ở Thanh Hóa.

Suối Cá thần Cẩm Lương


Suối Cá thần Cẩm Lương (còn gọi là Mó Ngọc) nằm bên chân núi Trường Sinh, thuộc bản Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện miền núi Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa, (cách trung tâm thành phố Thanh Hoá 80 km về phía Tây Bắc). Xã Cẩm Lương nằm ở bờ bắc sông Mã. Đàn cá ở suối cá thần này có hàng nghìn con lớn, nhỏ, mỗi con cá có thể nặng từ 2 kg đến 8 kg, có cá chúa nặng tới 30 kg, gồm các loài: Cá dốc (tên khoa học: Spinibarbichthys denticulatus, thuộc bộ Cá chép, có tên trong Sách đỏ Việt Nam); cá chài, cá mại. Hình thù các loài cá này rất lạ, màu sắc phong phú như: màu đỏ, xanh, hồng... Mỗi khi bơi, thân cá thần phát sáng nhiều màu, lấp lánh ánh bạc rất đẹp. Vào mùa nước cạn, lòng suối Ngọc chỉ sâu khoảng 20 cm đến 40 cm, nước trong vắt, có thể đưa tay xuống nước vuốt ve những con cá thần. Đây là điều hấp dẫn nên đã thu hút hàng nghìn lượt khách du lịch đến suối cá thần Cẩm Lương mỗi năm. Bên cạnh suối cá thần, xã Cẩm Lương hiện đang còn giữ được nguyên vẹn hệ thống rừng nguyên sinh với các loài động, thực vật đặc trưng của vùng nhiệt đới, thuộc dãy núi đá vôi Pù Luông - Cúc Phương. Tuy mật độ cá dày đặc nhưng nước suối không bao giờ tanh. Người dân ở đây vẫn thường nấu ăn bằng nước của dòng suối này. Hiện nay, đã có đường cầu treo qua sông Mã để du khách có thể qua lại dễ dàng.

Người ta tin rằng cá ở đây linh thiêng nên mọi người chỉ đến chiêm ngưỡng và cầu may, không ai đánh bắt. Đây là một địa điểm tham quan nổi tiếng của Thanh Hóa. Theo niềm tin của người dân trong vùng, đây là giống cá thần. Sự sung túc của đàn cá trên dòng suối sẽ đem lại sự bình yên no ấm cho cuộc sống của bà con dân tộc Mường, nên truyền đời người dân trong khu vực luôn gìn giữ nuôi nấng, không ai dám ăn thịt loại cá này, vì đó là hành động xúc phạm đến thần linh, chẳng những gây ra tai hoạ cho mình mà còn cho cả cộng đồng.

Có thể nói rõ hơn về xã Cẩm Lương là xung quanh giáp với các xã Cẩm Thạch, Cẩm Thành, Cẩm Giang của huyện Cẩm Thủy và phía Bắc giáp huyện Bá Thước. Hiện nay, đã có đường cầu treo qua sông Mã để du khách có thể qua lại dễ dàng. Suối Lương Ngọc dài hơn trăm mét, chảy từ một hang đá chân núi, đổ ra cánh đồng thung lũng nằm thoai thoải bên bờ nam sông Mã.

Suối Cá thần Cẩm Liên


Suối Cá thần Cẩm Liên (còn được gọi là Suối Đóng hay Mó Đóng) thuộc địa phận thôn Rùng, xã Cẩm Liên, huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá; cách thị trấn Cẩm Thuỷ 15 km về phía tây. Suối Đóng và Suối Cá thần Cẩm Lương nằm ở hai phía bờ khác nhau của Sông Mã.

Nước ở mó Đóng là nguồn nước cơ bản chảy ra ruộng để bà con bản địa cấy hái, nhưng cá chẳng bao giờ bơi ra. Chúng chỉ quẩn quanh trong một diện tích chừng 500 m2 rồi lại quay vào. Loài cá này được người dân Mường gọi là "cá phốôc" có hình thù mình tựa cá trắm, căng tròn ở phần giữa thân, vẩy như vẩy cá chép, lưng hơi sẫm, môi có màu phớt hồng, vây và đuôi có chấm đỏ. Đây cũng là loài cá ở suối cá thần Cẩm Lương.

Suối Cá thần tại xã Văn Nho

Suối Cá thần tại xã Văn Nho nằm tại bản Chiềng Ban, xã Văn Nho, huyện Bá Thước, là suối cá thần thứ ba được phát hiện tại Thanh Hoá. Khu vực này nằm trong lưu vực sông Âm, một nhánh của sông Chu. Cá ở đây nặng từ 400 g đến 5 kg.

Sau khi phát hiện ra suối cá, người dân sở tại đã lập bàn thờ bên cạnh khu vực hang động nằm phía trên suối cá khoảng 10 m để thờ thần cá

Từ những năm 1970, quân đội Việt Nam đã xây dựng đập chắn nước thủy lợi tại dòng suối này. Trong những năm đây, đàn cá nơi đây có dấu hiệu phát triển ngày càng nhiều. Cá ở đây cũng tương tự như loài cá được phát hiện tại hai xã Cẩm Liên và Cẩm Lương của huyện Cẩm Thuỷ. Toàn bộ khuôn viên khu vực hang cá Văn Nho rộng khoảng 1 ha.

Di tích lịch sử Đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan

(Mytour.vn) - Nếu ai đã từng được đặt chân tới Ngôi đền thờ bà Đức Quốc Mẫu Ỷ Lan Nguyên Phi, tại xã Dương Xá - huyện Gia Lâm – Hà Nội. Người mà được mọi người tôn kính với tài dựng nước yên dân thời vua Lý Thánh Tông và đã được nhân dân thờ cúng trang trọng với cái tên trìu mến và gần gũi “bà Tấm Ỷ Lan”. Thì sẽ hiểu được đó là một niềm vinh hạnh đáng tự hào về lịch sử nước nhà.

Giới thiệu về Nguyên phi Ỷ Lan:
Ỷ Lan tên thật là Lê Thị Yến, cha là Lê Công Thiết, mẹ là Vũ Thị Tỉnh, dì ghẻ là Chu Thị và người giúp việc trong lúc hoạn nạn là lão tăng Thái Diên. Bà chính quê làng Thổ Lỗi, sau đổi thành siêu loại Thuận Thành Bắc Ninh nay thuộc xã Dương Xá huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Vì mẹ mất lúc 12 tuổi, cha lấy vợ kế nên Ỷ Lan khổ như cô Tấm trong truyện cổ tích Tấm Cám. Sử ghi Ỷ Lan là cô Tấm lộ Bắc hay gọi đền thờ Ỷ Lan ở xã Dương Xá, Gia Lâm, Hà Nội là đền thờ Bà Tấm vì thế.



Tượng thờ bà Quốc mẫu Ỷ Lan

Vị trí: Khu di tích đền thờ Đức Quốc Mẫu Ỷ Lan Nguyên phi ở xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội

Đặc điểm: Là nơi thờ Đức Quốc Mẫu Ỷ Lan Nguyên phi. Quần thể khu di tích đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan gồm chùa, đền, điện, sơn trang nằm trong khuôn viên có sân, nhà thủy đình, cây xanh các loại rộng khoảng 3ha. Chừa và đển thờ Nguyên phi Ỷ Lan còn có tên gọi là chùa "Bà Tấm '''''''', đền "Bà Tấm '''''''', chùa Cả, đền Cả. Nằm ở phía tay trái, trước cửa đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan là đôi rồng chầu bằng đá phủ phục, với đường nét, chạm khắc hết sức tinh xảo. Qua các bậc xây, du khách đi vào trong đền. Đền được xây dựng từ cuối thế kỷ XI, là nơi phụng thờ bà ngay chính trên quê hương Nguời. Đền có kiến trúc theo lối cung đình thời Lý, có 72 cửa, thuộc loại cổ nhất nước ta, cách không xa đền phía tay phải có chùa mang tên: "Linh Nhân tư Phúc Tự” do chính Linh Nhân Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan xây dựng cùng với hàng trăm ngôi chùa khác, được khánh thành tháng 03 năm Ất Mùi(1115).



Bảng chỉ dẫn Đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan

Trong đền và chùa hiện còn lưu giữ nhiều hiện vật quí và hiếm. Nổi bật là đôi sư tử điêu khắc bằng đá, sư tử được tạc từ một khối đá lớn, cao 1,20m, rộng 1,36m trong tư thế nằm phủ phục, đường nét đặc biệt mềm mại, tạo cho chúa sơn lâm một vẻ đẹp vừa uyển chuyển vừa oai hùng mạnh mẽ. Các chi tiết: đôi mắt to, lồi hẳn ra ngoài, ẩn dưới đôi lông mày rậm, mũi hở, hàm răng đều đặn, răng nanh to, nhọn và khỏe, nhất là chân mập. Có những móng cong sắc, quắp chặt, khiến cho người xem thấy rõ chứa sơn lâm tiềm ẩn sức mạnh phi thường. Tuy nhiên bằng tài nghệ điêu khắc khéo léo, tuyệt vời bằng cách sử dụng nhiều họa tiết đan móc, khi thì gợn nhỏ tựa lưng vào nhau thành đường viền quanh miệng, khi thì to sù lên ở vai, khi lại xếp thành những bông hoa hé nở ở móng và chân, khiến cho người xem có ấn tượng vật đang sống vẫn thở nhịp nhàng.



Cổng vào đền

Khác với những con sư tử thường thấy điêu khắc ở các đình chùa, sư tử trong đền thờ Ỷ Lan đang vờn ngọc, đồng thời trên trần được trổ chữ "vương" khẳng định vị trí chúa tể muôn loài, bảo vệ báu vật của đất nước. Đây là 1 công trình nghệ thuật tuyệt tác, một hiện vật cổ quí và hiếm ở Việt Nam và còn cả ở khu vực Đông Nam Á. Trong cung còn 2 khám cổ thời Mạc hiện tìm thấy, các máng chạm trên khám như hoa lá, rồng phượng đều có giá trị về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Việt Nam.



Trong đền và chùa "Bà Tấm" còn có 1 thành bậc đá liền khối điêu khắc rồng, lân thời Lý đang chạy xuống, dài 1,30m, cao 0,80m, nặng hàng chục tấn và nhóm tuợng ba ông Tam thể ngồi trên đầu 2 con sư tử cao 4m, tạc bằng đá khối rất tinh xảo cũng là những hiện vật độc đáo đã trải qua gần 9 thế kỷ, còn lại đến hôm nay. Đáng chú ý trong đền có tượng Nguyên phi Ỷ Lan được tạc rất đẹp, khi bà là Nguyên phi cùng tượng 6 vị "Cung nữ trong triều '''''''' (lục bộ), tương truyền là sáu bà giữ 6 bộ trong triều đình giúp bà nhiếp chính. Đặc biệt còn có đôi câu đối ở lền từ cổ xưa ghi rõ: Thập bát tứ, diệu phong thế tại tam truyền chiêu lệnh thục. Bách dư sở tự quán địa lưu cổ trạch tối linh thanh (có nghĩa là: đời nhà Lý thứ ba kén được người con gái đẹp, có đức có tài - trên đất nước ta có trên một trăm nơi thờ nhưng đây chính là quê hương của bà được lưu truyền, đến ngày nay và rất linh thiêng.



Hồ và thủy đình

Qua nhiều lần trung tu, lần lớn nhất là vào năm 1612, nhưng đến nay vẫn giữ được vẻ nguyên sơ của nó với nét kiến trúc mang đậm dấu ấn văn hóa nhà Lý, vừa mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc lại vừa mang giá trị nghệ thuật cao, thực sự là một công trình nghệ thuật độc đáo, quí hiếm của dân tộc. Với hệ thống truyền thuyết cùng các địa đanh gắn bó với việc Ỷ Lan giúp vua Lý Thánh Tông và những di vật cổ của thời Lý hiện còn đã đưa khu di tích chùa và đền thờ bà Ỷ Lan ở Dương Xá trở thành trung tâm văn hóa nổi bật nhất, quan trọng nhất trong hệ thống di tích, tưởng niệm Nguyên phi Ỷ Lan. Nơi đây không chỉ thờ phụng một danh nhân lịch sử văn hóa nổi tiếng của cả nước mà còn là điểm di tích cách mạng rất đáng trân trọng của dân tộc. Trong thời gian tiền khởi nghĩa, đây là nơi được đón các đồng chí Trung ương và Xứ ủy Bắc kỳ như: Hoàng Văn Thụ, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt, Văn Tiến Dũng v.v... đi về hoạt động. Hàng năm cứ vào địp từ 19 đến 21 tháng 2 âm lịch, du khách thập phương lại hành hương về Dương Xá tham dự lễ hội truyền thống kỷ niệm ngày Nguyên phi Ỷ Lan đăng quang và ngày 24, 25 tháng 7 âm lịch, ngày mất của bà. Tất cả cừng về thắp hương tưởng niệm, nhớ về người phụ nữ nổi danh trong lịch sử nước nhà với 2 lần nhiếp chính trông coi việc nước. 



Hàng năm nhân dân trong vùng đã kéo về mở hội truyền thống suốt 3 ngày (19,20,21 tháng 2 âm lịch) tại Dương Xá. Hoà cùng với cả nước kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, Hà Nội, UBND huyện Gia Lâm cùng với UBND xã Dương Xá đã tôn tạo trùng tu ngôi đền và xây dựng tượng đài Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan,  ngôi tượng này đang được thực hiện với chiều cao 9.1m nặng 25 tấn đồng. Ngoài ra, còn có bức phù điêu đá xanh Thanh Hoá 31.2m và vườn hoa, cây cảnh, hồ bán nguyệt do công ty  Mỹ Thuật xây dựng đảm nhận thiết kế và thi công với chi phí gần 19 tỉ VNĐ. Dự kiến sẽ hoàn thành vào ngày 2/9/2010. Đây thực sự là một công trình nghệ thuật độc đáo. Đền Nguyên Phi Ỷ Lan với lối kiến trúc mang đậm dấu ấn văn hoá nhà Lý, vừa mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc lại vừa mang giá trị nghệ thuật cao. Trong tương lai không xa, nơi đây còn trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn đối với khách trong nước và nước ngoài.

Văn Miếu Quốc Tử Giám - Trường Đại học đầu tiên Việt Nam

(Mytour.vn) - Là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long. Văn Miếu Quốc Tử Giám cũng là hình ảnh cho nền giáo dục của nước nhà. Đây chính là trường Đại học đầu tiên tại Việt Nam.

Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt. Quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám và vườn Giám, mà kiến trúc chủ thể là Văn Miếu - nơi thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám có tường gạch vồ bao quanh, phía trong chia thành 5 lớp không gian với các kiến trúc khác nhau. Mỗi lớp không gian đó được giới hạn bởi các tường gạch có 3 cửa để thông với nhau (gồm cửa chính giữa và hai cửa phụ hai bên). Từ ngoài vào trong có các cổng lần lượt là: cổng Văn Miếu, Đại Trung, Khuê Văn Các, Đại Thành và cổng Thái Học.[1] Với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu-Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến "cầu may" trước mỗi kỳ thi.


Vị trí:Đường Quốc Tử Giám, quận Đống Đa, Hà Nội.


Đặc điểm: Văn Miếu được xây dựng tháng 10 năm 1070, thờ Khổng Tử, các bậc Hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Năm 1076, nhà Quốc Tử Giám được xây kề sau Văn Miếu, ban đầu là nơi học của các hoàng tử, sau mở rộng thu nhận cả các học trò giỏi trong thiên hạ. Văn Miếu có tường bao quanh xây bằng gạch. Bên trong có những lớp tường ngăn ra làm 5 khu. Khu thứ nhất bắt đầu với cổng chính, trên cổng có chữ Văn Miếu, dưới cổng là đôi rồng đá mang phong cách thời Lê sơ (thế kỷ 15). Lối đi ở giữa dẫn đến cổng Đại Trung Môn mở đầu cho khu thứ hai. Hai bên còn hai cổng nhỏ. Vẫn lối đi ấy dẫn đến Khuê Văn Các (gác vẻ đẹp của sao khuê, chủ đề văn học). Hai bên gác cũng có hai cổng nhỏ. Khu thứ ba là từ gác Khuê Văn tới Đại Thành Môn, ở giữa khu này có một hồ vuông gọi là Thiên Quang Tỉnh (giếng trời trong sáng) có tường bao quanh.


Hai bên hồ là hai khu vườn bia tức nơi dựng các tấm bia ghi tên những người đỗ tiến sĩ (năm 1993 với sự tài trợ một phần của tổ chức doanh nghiệp Mỹ, Ban Quản lý Văn Miếu đã dựng được tám ngôi nhà che cho các bia này). Tiến sĩ là người đỗ cao nhất trong kỳ thi Đình. Ngày trước, người đi học sau khoảng 10 năm đèn sách đủ vốn chữ để dự thi Hương tức khoa thi tổ chức liên tỉnh; cứ ba năm mở một khoa. Đạt đỉểm cao của kỳ thi này đạt học vị Cử nhân. Năm sau các ông Cử tới kinh đô dự kỳ thi Hội. Những người đủ điểm chuẩn sẽ dự kỳ thi Đình (thi Hội và thi Đình thực ra là hai giai đoạn của một cuộc thi). Trúng tuyển kỳ thi này được gọi là Tiến sĩ. Đỗ Tiến sĩ có thể được bổ làm quan. Hiện có 82 bia, xưa nhất là bia ghi về khoa thi năm 1442, muộn nhất là bia khoa năm 1779. Đó 1à những di vật quý nhất của khu di tích. Bước qua cửa Đại thành là tới khu thứ tư. Một cái sân rộng, hai bên là dãy nhà Tả Vu, Hữu Vu, vốn dựng làm nơi thờ các danh nho. Cuối sân là nhà Đại bái và Hậu cung, kiến trúc đẹp và hoành tráng Tại đây có một số hiện vật quý: bên trái có chuông đúc năm 1768, bên phải có một tấm khánh đá, trên mặt có khắc bài văn nói về công dụng của loại nhạc khí này.

 

Bố cục của toàn thể Văn Miếu như vậy muộn nhất là cũng có từ đời Lê (thế kỷ 15 - thế kỷ 18). Riêng Khuê Văn Các mới được dựng khoảng đầu thế kỷ 19, nhưng cũng nằm trong quy hoạch tổng thể vốn có của những Văn Miếu (như Văn Miếu ở Khúc Phụ, Trung Quốc, quê hương của Khổng Tử, có đủ Đại Trung Môn, Khuê Văn Các, Đại Thành Môn, Đại Thành Điện, bia tiến sĩ...). Khuê Văn Các ở Văn Miếu Hà Nộị thường là nơi tổ chức bình các bài văn thơ hay của các sĩ tử Sau khu Đại Bái vốn là trường Quốc Tử Giám đời Lê, một loại trường đại học đương thời. Khi nhà Nguyễn rời trường này vào Huế thì nới đây chuyển làm đền Khải Thánh thờ cha và mẹ Khổng Tử, nhưng đền này đã bị hư hỏng trong chiến tranh.


Văn Miếu là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội. Ngày nay, Văn Miếu - Quốc Tử Giám là nơi rằm tháng Giêng hằng năm Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức báo cáo kết quả của nền văn học trong năm và bình những bài thơ hay. Đây là nơi nhà nước tổ chức trao các hàm, học vị: Giáo sư, Viện sĩ, Tiến sĩ. . . cho những trí thức mới. Hằng năm, cứ sau kỳ tốt nghiệp bậc đại học, thủ khoa của các trường được về Văn Miếu – Quốc Tử Giám để Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội trao bằng khen và tham quan rất nhiều hoạt động trong lĩnh vực văn hóa được tổ chức tại Văn Miếu. Đặc biệt, nơi đây cũng là điểm đến thăm quan du lịch của nhiều du khách trong và ngoài nước. 


Về mặt di tích mà nói thì 2 nhà bia Tiến sĩ ở 2 bên giếng Thiên Quang là nơi bảo tồn những di tích quý nhất của cả khu di tích lịch sử này. 82 tấm bia Tiến sĩ hiện còn có giá trị về nhiều mặt. Đây là những tư liệu văn tự bản gốc duy nhất được lưu giữ tại chỗ, liên tục kể từ khi được dựng.

Văn Miếu Quốc Tử Giám là di tích lịch sử mà người dân Việt lấy đó là tự hào, người đời thường truyền tau nhau rằng "nếu ai đến Hà Nội mà chưa đến Văn Miếu Quốc Tử Giám" thì chưa phải đi Hà Nội. Hàng năm mỗi lần vào dịp thi là các sĩ tử thường đến sờ đầu rùa. Nhưng mấy năm về đây, do nhiều sinh viên tình nguyện, sư chùa đến để mong các sĩ tử sẽ không sờ đàu rùa nữa vì như vậy sẽ bị mòn đầu rùa và việc này cũng đã hạn chế rất nhiều.

Trà chanh Sài Gòn 'hợp rồi tan'

Bởi chơi theo phong trào.

Trong khi Trà chanh tại Hà Nội sau nhiều năm vẫn là nơi được giới trẻ lựa chọn làm chỗ đến và còn rất đông vui thì trà chanh Sài Gòn lại hoàn toàn trái ngược.

Đìu hiu phố trà chanh Sài Gòn

Sau hơn 1 năm xuất hiện ở Sài Gòn và đã gây ra được làn sóng mới nhưng trà chanh Sài Gòn không giữ vững được vị thế của mình mà nhanh chóng tàn lụi. Bởi giới trẻ Sài Gòn chỉ tò mò về "văn hóa" này thời gian đầu, rồi cũng dần chìm vào quên lãng, giống như các món ăn phong trào khác như: chè Khúc Bạch , Bún đậu mắm tôm ,...

Xuất hiện trên con đường được mệnh danh là trung tâm trà chanh của Sài Gòn ở Lê Thị Riêng (Quận 1), dạo quanh một vòng chỉ còn lèo tèo vài quán trà chanh buồn hắt hiu.

Sau hồi tìm kiếm quán đông đúc nhất nhưng bất thành, chúng tôi quyết định chọn một quán có cái tên "khá Hà Nội". Vừa bước tới cửa, tiếng nhạc ồn ã phát ra từ bộ loa gắn với chiếc laptop được người thanh niên trông quán ngồi nghiền ngẫm khi vắng khách.

Ngoài chúng tôi, quán trà chanh tại Sài Gòn vắng lặng, không có khách.

Vốn dĩ không có cảm tình với trà chanh, tôi quyết định chọn một ly nước khác và quan sát. Sau hơn 30 phút tại đây mới có thêm 1 cặp nam nữ tiến vào quán thế nhưng cũng như tôi, đôi nam nữ này không chọn trà chanh mà chọn: 1 ly chè Khúc Bạch, cùng 1 ly nước Mơ.

Khi được hỏi tại sao không uống trà chanh, thanh niên này nói: “Trà chanh không có gì đặc biệt, chẳng qua là nước hóa chất vị trà xanh và một vài lát chanh tươi tạo mùi, mình không thích trà chanh”. Bạn gái của anh chàng này thực dụng hơn, “Nếu so sánh giá cả và chất lượng, mình sẽ chọn một ly cam vắt tại Sài Gòn với giá chỉ 15 ngàn đồng, đắt hơn 5 ngàn nhưng đó không phải vấn đề, mình cần một thức uống có giá trị”.

Khách hàng hiếm hoi bước vào quán nhưng không chọn trà chanh .

Cố nán lại ngồi lâu hơn nhưng rốt cuộc cũng không có thêm khách hàng nào vào quán này nữa. Gọi tính tiền và tranh thủ hỏi chủ quán về tình hình kinh doanh, anh này nói, “Mình cũng sắp phải chuyển đổi mục đích sử dụng cái quán này thôi, trà chanh ế ẩm quá. Mình không phải thuê mặt bằng nên vẫn còn trụ được nhưng với lãi vài đồng lẻ thế này thì cũng không nên duy trì làm gì!”.

Nói chuyện với một bạn người Sài Gòn, tên Trang từng chứng kiến cảnh sầm uất, đông đúc tại Lê Thị Riêng được biết: “Đã rất nhiều quán trà chanh tại con đường này phải đóng cửa vì ế ẩm, ngay đối diện anh trước đây là quán trà chanh khá đông nhưng bây giờ là tiệm giặt ủi quần áo rồi”.

Nguyên nhân thất bại của trà chanh Sài Gòn

Xét đến Hà Nội, hai trung tâm trà chanh lớn tại Ngã tư Sở và khu Nhà thờ lớn phong trào cũng đã đi xuống nhưng ở nhà thờ vẫn còn tập trung được lượng khách quen thuộc muốn hòa mình vào đám đông. Vậy sự khác nhau nào khiến trà chanh Hà Nội duy trì và vẫn phát triển tốt trong khi Sài Gòn mới được một năm đã nhanh chóng tàn lụi.

Trà chanh ở nhà thờ lớn Hà Nội vẫn được chú ý, tại đây tạo nên cộng đồng khá đông đảo nên phong trào khó đi xuống.

Kinh doanh trà chanh ở Hà Nội khá đơn giản khi chỉ cần những chiếc ghế nhựa và cái quan trọng nhất là phải có không gian đủ rộng để tạo thành một cộng đồng đông vui trong khi đó tại Sài Gòn, từng quán trà chanh chật hẹp được mở ra, vỉa hè không được sử dụng như Hà Nội đã khiến khả năng tạo liên kết cộng đồng bị "gãy".

Thời tiết tại Sài Gòn cũng là một rào cản với trà chanh, nếu như có không gian vỉa hè để kinh doanh, thì chiều tối trời lại thường đổ mưa tầm tã, khiến nhiều cuộc vui, chém gió,... của các nhóm bạn trẻ phải ngưng giữa chừng.

Mặt khác điểm mạnh tại các quán ở Sài Gòn thường có xu hướng chiều khách nhưng vô tình lại trở thành yếu điểm. Bởi trà chanh Hà Nội chỉ có một món duy nhất là trà chanh nên khách hàng vào không cần gọi đồ uống, không cần chọn lựa. Trong khi đó, ở Sài Gòn, một danh sách các đồ uống phong phú tại các quán đã vô tình khiến trà chanh nhạt nhòa đi hẳn.

 

Trà chanh Sài Gòn 'hợp rồi tan'

Bởi chơi theo phong trào.

Trong khi Trà chanh tại Hà Nội sau nhiều năm vẫn là nơi được giới trẻ lựa chọn làm chỗ đến và còn rất đông vui thì trà chanh Sài Gòn lại hoàn toàn trái ngược.

Đìu hiu phố trà chanh Sài Gòn

Sau hơn 1 năm xuất hiện ở Sài Gòn và đã gây ra được làn sóng mới nhưng trà chanh Sài Gòn không giữ vững được vị thế của mình mà nhanh chóng tàn lụi. Bởi giới trẻ Sài Gòn chỉ tò mò về "văn hóa" này thời gian đầu, rồi cũng dần chìm vào quên lãng, giống như các món ăn phong trào khác như: chè Khúc Bạch , Bún đậu mắm tôm ,...

Xuất hiện trên con đường được mệnh danh là trung tâm trà chanh của Sài Gòn ở Lê Thị Riêng (Quận 1), dạo quanh một vòng chỉ còn lèo tèo vài quán trà chanh buồn hắt hiu.

Sau hồi tìm kiếm quán đông đúc nhất nhưng bất thành, chúng tôi quyết định chọn một quán có cái tên "khá Hà Nội". Vừa bước tới cửa, tiếng nhạc ồn ã phát ra từ bộ loa gắn với chiếc laptop được người thanh niên trông quán ngồi nghiền ngẫm khi vắng khách.

Ngoài chúng tôi, quán trà chanh tại Sài Gòn vắng lặng, không có khách.

Vốn dĩ không có cảm tình với trà chanh, tôi quyết định chọn một ly nước khác và quan sát. Sau hơn 30 phút tại đây mới có thêm 1 cặp nam nữ tiến vào quán thế nhưng cũng như tôi, đôi nam nữ này không chọn trà chanh mà chọn: 1 ly chè Khúc Bạch, cùng 1 ly nước Mơ.

Khi được hỏi tại sao không uống trà chanh, thanh niên này nói: “Trà chanh không có gì đặc biệt, chẳng qua là nước hóa chất vị trà xanh và một vài lát chanh tươi tạo mùi, mình không thích trà chanh”. Bạn gái của anh chàng này thực dụng hơn, “Nếu so sánh giá cả và chất lượng, mình sẽ chọn một ly cam vắt tại Sài Gòn với giá chỉ 15 ngàn đồng, đắt hơn 5 ngàn nhưng đó không phải vấn đề, mình cần một thức uống có giá trị”.

Khách hàng hiếm hoi bước vào quán nhưng không chọn trà chanh .

Cố nán lại ngồi lâu hơn nhưng rốt cuộc cũng không có thêm khách hàng nào vào quán này nữa. Gọi tính tiền và tranh thủ hỏi chủ quán về tình hình kinh doanh, anh này nói, “Mình cũng sắp phải chuyển đổi mục đích sử dụng cái quán này thôi, trà chanh ế ẩm quá. Mình không phải thuê mặt bằng nên vẫn còn trụ được nhưng với lãi vài đồng lẻ thế này thì cũng không nên duy trì làm gì!”.

Nói chuyện với một bạn người Sài Gòn, tên Trang từng chứng kiến cảnh sầm uất, đông đúc tại Lê Thị Riêng được biết: “Đã rất nhiều quán trà chanh tại con đường này phải đóng cửa vì ế ẩm, ngay đối diện anh trước đây là quán trà chanh khá đông nhưng bây giờ là tiệm giặt ủi quần áo rồi”.

Nguyên nhân thất bại của trà chanh Sài Gòn

Xét đến Hà Nội, hai trung tâm trà chanh lớn tại Ngã tư Sở và khu Nhà thờ lớn phong trào cũng đã đi xuống nhưng ở nhà thờ vẫn còn tập trung được lượng khách quen thuộc muốn hòa mình vào đám đông. Vậy sự khác nhau nào khiến trà chanh Hà Nội duy trì và vẫn phát triển tốt trong khi Sài Gòn mới được một năm đã nhanh chóng tàn lụi.

Trà chanh ở nhà thờ lớn Hà Nội vẫn được chú ý, tại đây tạo nên cộng đồng khá đông đảo nên phong trào khó đi xuống.

Kinh doanh trà chanh ở Hà Nội khá đơn giản khi chỉ cần những chiếc ghế nhựa và cái quan trọng nhất là phải có không gian đủ rộng để tạo thành một cộng đồng đông vui trong khi đó tại Sài Gòn, từng quán trà chanh chật hẹp được mở ra, vỉa hè không được sử dụng như Hà Nội đã khiến khả năng tạo liên kết cộng đồng bị "gãy".

Thời tiết tại Sài Gòn cũng là một rào cản với trà chanh, nếu như có không gian vỉa hè để kinh doanh, thì chiều tối trời lại thường đổ mưa tầm tã, khiến nhiều cuộc vui, chém gió,... của các nhóm bạn trẻ phải ngưng giữa chừng.

Mặt khác điểm mạnh tại các quán ở Sài Gòn thường có xu hướng chiều khách nhưng vô tình lại trở thành yếu điểm. Bởi trà chanh Hà Nội chỉ có một món duy nhất là trà chanh nên khách hàng vào không cần gọi đồ uống, không cần chọn lựa. Trong khi đó, ở Sài Gòn, một danh sách các đồ uống phong phú tại các quán đã vô tình khiến trà chanh nhạt nhòa đi hẳn.