Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

Văn hóa ẩm thực Hà Nội xưa và nay

Nói đến văn hóa ẩm thực Hà Nội mỗi người sẽ có một cái nhìn, một sự đánh giá khác nhau. Tuy nhiên, cho dù nhìn ở góc cạnh nào thì văn hóa ẩm thực Hà Nội xưa và nay cũng đều phong phú và đa dạng.

Vốn làm nghề nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu Sinh vật - Khảo cổ học, tôi có điều kiện truy tầm những chứng tích ăn uống của tổ tiên, ông bà từ ngàn năm, trăm năm qua. Nhân kỉ niệm nghìn năm Thăng Long, tôi mong có thể góp được một cái nhìn về lịch sử ăn uống của Hà Nội trong suốt nghìn năm thông qua những di vật liên quan đến ăn uống như xương thú vật, các loại hình bếp núc, nồi niêu, chén bát…và cả những tư liệu lịch sử khác cùng chứng nghiệm của chính bản thân mình, một người sinh ra và lớn lên cả đời ở Hà Nội.

Tôi nghĩ, mỗi người đều sẽ có một cách nhìn riêng về văn hóa ẩm thực của Hà Nội trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Ở đây, tôi chỉ xin góp một cái nhìn của riêng mình. Mỗi người góp một cái nhìn, chúng ta sẽ có được một cái nhìn tổng thể, đa chiều và chính xác hơn.

Trước hết, khi nói về văn hóa ẩm thực Hà Nội, chúng ta nên tách ra hai vấn đề chính để tìm hiểu: thứ nhất là “văn hóa ẩm thực của người Hà Nội”, và thứ hai là “văn hóa ẩm thực ở Hà Nội”. Nếu nói “văn hóa ẩm thực của “người” Hà Nội”, ta sẽ tìm hiểu được cái cốt lõi của một nền ẩm thực mà nhiều thế hệ người Hà Nội đã xây dựng nên. Cho dù bạn có sống ở nơi đâu, ở Huế, Sài Gòn hay Paris, NewYork nhưng bạn vẫn tự coi mình là người Hà Nội và vẫn giữ cái gốc văn hóa của người Hà Nội.



Ẩm thực vỉa hè đã đi vào tiềm thức cũng như nét văn hóa riêng của hầu hết người Hà Nội

Còn khi nói “Văn hóa ẩm thực “ở” Hà Nội” thì ta xem xét cái thực trạng văn hóa ẩm thực trong giới hạn không gian Hà Nội trong những thời gian cụ thể. Ví dụ ở Hà Nội người ta có kiểu ăn hè phố như thế này, có kiểu uống bia hơi vỉa hè như thế kia, có nhiều nhà hàng ăn, khách sạn sang trọng của nhiều nước khác đầu tư và quảng bá…Những thứ đó đã và đang xảy ra ở Hà Nội, nó thuộc về văn hóa ẩm thực Hà Nội nhưng nó không hoàn toàn gắn sâu với cái truyền thống chế biến, cái phong cách ăn riêng thường có ở người Hà Nội, cái sản vật tự nhiên mà chỉ ở Hà Nội mới có…

Sản vật Hà Nội

Bàn về ẩm thực ở bất cứ xứ nào, người ta cũng phải bắt đầu từ cái sản vật độc đáo của xứ đó. Bạn có thể ăn thịt lạc đà hay thịt đà điểu chế biến ngay trong nhà hàng sang trọng ở Hà Nội theo kiểu nấu của người Mông cổ, người Úc hay người Hà Nội nhưng không ai có thể nói đấy là món ăn Hà Nội. Món ăn Hà Nội thực sự Hà Nội nó phải bao hàm hai yếu tố: Về nguyên liệu, nó phải là nguyên liệu có nguồn gốc ở Hà Nội, khác với các vùng miền khác. Về cách chế biến, nó phải là cách chế biến khởi thủy của Hà Nội mà các vùng miền khác không có. Cũng có thể có các nguyên liệu, các phương thức chế biến du nhập từ các vùng miền khác đến nhưng được người Hà Nội sáng tạo nâng lên thành đặc sản mang một dấu ấn riêng của sản vật Thủ đô.

Chúng tôi chưa có điều kiện để tìm hiểu thật sâu về vấn đề này, chỉ xin nêu một vài nhận xét bước đầu qua những gì mà tư liệu đã có.

Nói đến ẩm thực Việt và ẩm thực Hà Nội nói riêng, chúng ta không thể không nói tới một nền văn hóa ẩm thực được hình thành và phát triển trong cái khung của nền văn minh lúa gạo. Lúa gạo đã là một sản vật chủ đạo nghìn năm, vạn năm của người Việt và cho đến tận ngày hôm nay và cả mai sau, lúa gạo vẫn là cái gốc rễ của văn hóa ẩm thực chúng ta.



Lúa gạo được coi là sản vật chủ đạo của vùng đất Thăng Long

Hà Nội nằm ở trung tâm đồng bằng Sông Hồng, một vùng đã sản sinh ra nhiều dòng giống lúa nước khác nhau từ rất sớm. Cách đây mấy tuần lễ, giới Khảo cổ học Việt Nam đã sửng sốt khi phát hiện ra trong lòng đất di chỉ khảo cổ học Thành Dền, huyện Mê Linh, Hà Nội những hạt thóc có tuổi trên 3000 năm. Đáng ngạc nhiên hơn nữa là một số hạt “thóc cổ” ấy đã nẩy mầm sau khi ngâm trong nước. Vấn đề có thực thóc cổ 3000 năm ấy có thể nẩy mầm được hay không còn đang được các nhà khoa học đa ngành làm sáng tỏ nhưng thực tế lúa gạo bao gồm cả gạo tẻ và gạo nếp đã được cấy trồng tại vùng đất Thăng Long nghìn năm thì là một sự thật hiển nhiên. Dù có tìm được hạt thóc cổ hay không thì ai cũng biết rằng Việt Nam vốn là một trong những trung tâm hình thành và phát triển nền nông nghiệp lúa gạo từ rất sớm và Hà Nội cũng là một trung tâm lúa gạo lâu đời trong cả nước.

Khi nói đến lúa gạo ở Hà Nội, ta không thể không nhắc đến vùng lúa gạo làng Mễ Trì nổi tiếng của Thăng Long ngàn năm văn vật.

Mễ Trì là địa danh cổ, truyền thống văn hóa lâu đời, nhiều di sản văn hóa từ thời xưa hiện còn tồn tại. Nơi đây ngày xưa nổi tiếng với câu ca dao:


"Cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì

Tương Bần, húng Láng, còn gì ngon hơn".


Theo sử sách ghi lại, xã Mễ Trì ngày xưa có tên là Anh Sơn. Nơi đây, đất đai phì nhiêu màu mỡ, người dân cấy cày trồng lúa tám thơm. Cuối thế kỷ XIX, danh tiếng gạo tám thơm bay tận kinh đô Huế và được dâng lên vua. Vua khen và ban cho tên là Mễ Trì (Ao gạo). Kể từ đó, cái tên Mễ Trì được lưu truyền đến bây giờ.

Mễ Trì còn là quê hương của các nghề cổ truyền như làm cốm, bún, trồng cấy sản xuất ra các loại gạo ngon như gạo dự, tám thơm, gié cánh. Gạo tám xoan Mễ Trì là đặc sản nổi tiếng ở miền Bắc.


Mễ Trì thơm gạo tám xoan

Dự hương, gié cánh thóc vàng như tơ


Có thể nói từ hạt gạo, người Hà Nội đã tạo ra những sản phẩm ẩm thực vô cùng độc đáo và mang thương hiệu thực sự của Hà Nội. Ta có thể kể ra đây một vài thứ đã có nguồn gốc rất rõ ràng. Đó là cốm làng Vòng, bún Phú Đô.


Cốm Vòng

Món quà quê dân dã, nhưng không kém phần thanh tao của người dân vùng châu thổ sông Hồng nói chung, Hà Nội nói riêng mỗi độ thu về.

Cốm ngon nhất là vào độ giữa thu (khoảng giữa tháng 8 âm lịch - dịp Tết Trung Thu), khi ấy sữa hạt lúa như tích tụ cả tinh hoa của trời và đất để làm nên sự ngọt bùi, chỉ ăn một lần nhớ mãi.



Cốm - Món quà dân dã nhưng thanh tao

Nghề làm cốm lắm công phu, có bí quyết của nghề. Lúa làm cốm phải là loại lúa nếp hoa vàng đặc sản. Khi cây lúa vừa độ uốn câu hoe hoe vàng, chỉ mười ngày nữa gặt rộ là lúc người làm cốm đi chọn ngắt từng bông dài, hạt mẩy về chế biến. Muốn cốm ngon thì phải tính toán cắt lúa đúng lúc. Lúa cắt về tuyệt đối không được vò hay đập, mà phải tuốt để cho những hạt thóc vàng bay ra. Lúa già hạt cốm không còn xanh, cứng và gãy nát. Lúa non quá, hạt cốm bết vào vỏ trấu, nhão mất ngon. Thường lúa gặt hôm nào đem rang và giã cốm hôm đó.

Rang lúa là công đoạn vất vả nhất trong quá trình làm cốm. Lúa phải được rang sao cho vừa lửa, hạt cốm chín tới, không giòn mà róc trấu.

Lúa sau khi rang xong đem đổ vào cối đá, dùng chày giã nhẹ tay nhưng nhịp phải nhanh, đều thì hạt cốm mới xanh, mịn và có độ dẻo. Xong một lượt giã lại đem sảy bớt trấu, cứ như thế cho đến khi sạch vỏ. Khi xong, đem cốm gói trong lá sen để giữ cho cốm không bị khô và thấm hương thơm từ lá sen.

Tại mỗi mẻ cốm ra lò được phân thành các loại như cốm lá me (hay còn gọi là cốm đầu nia), cốm rót (giót), cốm mộc và cốm non thông thường. Cốm lá me là những mầm nếp mỏng dính như thể hoặc hơn lá me, bé tí bay ra trong khi đang sàng cốm sau đợt giã cuối. Loại cốm này số lượng bao giờ cũng ít và hiếm, nếu có chỉ dành cho gia chủ thưởng thức mà thôi.

Loại ngon thứ nhì và nhiều hơn là cốm rót. Đây là những hạt nếp non sau khi giã đã tự vón vào với nhau thành từng hạt ngô, hạt đỗ. Mỗi mẻ chỉ được khoảng 2/10 khối lượng cốm rót, thậm chí ít hơn, đặc biệt đến cuối mùa thì càng hiếm. Cốm còn lại trong cối giã là cốm mộc.

Cốm mộc nhìn không đẹp, không xanh, do đó người ta phải hồ cốm bằng cách dùng lá mạ giã nhuyễn pha với một ít nước đem trộn với cốm để cốm có màu xanh lưu ly đẹp mắt.

Cốm thường được thưởng thức cùng chuối tiêu trứng cuốc hoặc với quả hồng chín - hai món quà sẵn có trong mùa thu, hay nhâm nhi cùng chén chè Thái Nguyên đậm đà. Khi ăn cốm phải thong thả, nhai kỹ mới cảm nhận hết được vị ngọt, ngậy, dẻo của hương lúa non, hương thơm tao nhã của lá sen...

Nếu cốm là món ăn đặc trưng của đất Hà thành, thì làng Vòng (nay thuộc xã Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội) là cái nôi của món ăn đặc sản dân dã này. Cốm làng Vòng (hay quen gọi là cốm Vòng) từ lâu ngon nức tiếng vì vẻ ngoài xanh dịu, óng ánh, độ dẻo mềm hiếm có cùng hương vị đặc biệt chỉ khi thưởng thức mới có thể cảm nhận hết. Từ cốm ta có thể chế biến thành bánh cốm, chè cốm, chả cốm, cốm xào...



Bún

Hà Nội có những làng bún nổi tiếng, đó là bún Phú Đô (Quận Từ Liêm), bún Tứ Kì (Quận Hoàng Mai) và bún Cổ Loa (Đông Anh). Bản thân tôi đã có dịp tìm hiểu về lịch sử làng bún Phú Đô và nhận thấy bún ở đây quả là có từ lâu đời và cho tới tận bây giờ dân làng bún Phú Đô vẫn còn tổ chức lễ hội hàng năm suy tôn hai bà tổ nghề bún có từ đời Lê

Vậy Bún là gì ? Bún từ đâu đến?

Chẳng ai mà biết được. Chỉ biết rằng từ thuở cha sinh mẹ đẻ ra tôi đã có bún rồi. Sau này, khi có tý chữ nghĩa, tập tọng nghiên cứu văn hóa ẩm thực tôi mới tò mò tìm hiểu xem bún ở đâu ra? được làm thế nào? có phải là món ăn quốc hồn quốc túy của dân Việt ta hay không? Ấy là cái thói của những người nghiên cứu. Kẻ nghèo hèn hay người giàu sang hơi đâu mà nghĩ cho mệt óc. Bún là bún. Có thế thôi! Cùng lắm khi trêu nhau họ chỉ mặt nhau mà nói: cái thằng cha này mềm như bún thì làm ăn gì được? Hoặc cái món rượu bổ này hay lắm, tưới mấy giọt vào đĩa bún thì cả đĩa bún mềm oặt cũng dựng đứng lên chào cờ!

Tôi tò mò hỏi mấy vị giáo sư bên Viện Hán Nôm và cả giáo sư Việt học tận Paris. Các vị đều cho biết: từ bún chỉ có trong tiếng Nôm, tuyệt không có trong chữ Hán. Chữ Hán chỉ có từ bánh, từ bột chứ không có từ bún.

Tôi giật mình, thì ra trong các thứ ăn chế biến từ gạo tẻ, ngoài cơm ra, bún là thứ thực phẩm chế biến bằng gạo phổ biến nhất trong ẩm thực Việt chúng ta. Bún có thể ăn quanh năm, ăn bốn mùa xuân hạ thu đông. Bún có mặt trong bữa ăn ngày thường cũng như trong ngày tết. Người ta có thể ngồi xổm ăn bún chấm mắm tôm, xì xụp bát bún riêu, bún ốc, bún chó ngoài chợ hay chễm chệ quanh mâm đồng, trên bàn tiệc chốn cao lâu thưởng thức món bún thang, bún nem cua bể hay chả cá... Bún là thức ăn của nhà giàu và của cả người nghèo. Bún không phân biệt đẳng cấp giai tầng trong xã hội. Bún là thức ăn của người Việt.

Từ nguyên liệu khởi đầu là bún, người ta có đến muôn vàn cách ăn khác nhau: Bún nước thì có bún riêu cua, bún ốc, bún canh, bún xáo măng, bún vịt, bún xáo chó, bún bò giò heo...; ăn khô thì có bún đậu phụ mắm tôm, bún chả, bún nem, bún bò Nam Bộ.... Bún ăn khô cũng được, ăn nước cũng được, ăn nóng cũng được mà ăn nguội cũng mát ruột...

Đi từ Bắc vào Nam, người ta còn thấy biết bao kiểu bún khác nhau. Nào là bún mực, bún nước lèo, bún tôm, bún cua...và đặc biệt ở miền Trung còn có cả bún làm từ ngô hay bún làm từ gạo ngâm nước tro, bún làm từ đỗ...Thật muôn hình vạn trạng.



Bún chả Hà Nội

Có một nhà nghiên cứu ẩm thực người Hàn Quốc hỏi tôi: “liệu có phải bún là một biến thể từ mì sợi của Trung Hoa?”. Ông ta đang cùng đoàn Ti vi ẩm thực Hàn Quốc sang tận Italy làm phim phóng sự về sợi mì từ Trung Hoa đến tận Italy!!! Nhà nghiên cứu nọ muốn chứng minh sự lan tỏa của văn hóa Trung Hoa từ đại lục ra tận hải đảo, từ phương Đông tới tận phương Tây thông qua món mỳ sợi. Tôi không ngần ngại mà trả lời rằng: bún Việt không nằm trong quỹ đạo ấy bởi mấy lẽ:

Gạo dùng làm bún phải là gạo tẻ, loại không dính. Loại gạo này có xuất xứ từ vùng xứ nóng chứ không phải xứ lạnh như quê hương của người Hán.

Quy trình làm bún Việt khác hẳn với các loại mì là ở chỗ muốn làm bún phải có thời gian để bột gạo lên men, không giản dị như cách làm mì sợi, mì ống.

Nhiều dụng cụ dùng để làm bún chỉ thấy có ở Việt Nam như từ cái lượt (chỉ một loại vải dệt từ tơ tằm thô để bọc bột) hay cái thon nót (cái gầu đan, cán bằng gộc tre để vớt bún khi bún vừa nổi lên trong nồi nước sôi)...Rồi đến những tên gọi dân gian của bún, như bún con bừa, bún vẩy ốc, bún lá, bún rối...Những từ chỉ có ở xứ sở Việt Nam. Có làng còn giữ được thần phả ghi rõ ông tổ nghề bún và lễ hội thờ bún, thi làm bún diễn ra hàng năm...

Thống kê tất tần tật các loại thức ăn với bún trên đất Việt có đến ngót ngét trăm loại khác nhau. Đố nơi nào trên thế giới có nhiều đến thế.

Chuyện bún còn dài. Chỉ biết rằng người Việt ta còn thì bún còn. Bún là món ăn Việt 100%.

Xin bạn hãy ngồi vào mâm và nhớ ăn cho cẩn thận kẻo sợi bún dính mép người ta lại nhắc khéo “Bẩm quan lớn, trên môi ngài có con giun đất ạ” như trong một chuyện tiếu lâm nực cười thuở xưa.

Nói về bún, ta có thể thấy ngày nay, khắp nơi trên đất nước ta đều có bún nhưng bún Hà Nội nó có nguồn gốc, lí lịch rõ ràng. Từ món bún ốc, bún riêu dân dã nổi tiếng ở làng Pháp Vân - Thanh Trì đến bún chả, bún nem rồi bún thang, bún chả cá …là những sản phẩm thực đặc sắc mà khách sành ăn qua Hà Nội không thể bỏ qua. Thử hỏi không có bún thì các đặc sản trên còn có nghĩa lí gì. Chẳng lẽ ăn bún thang Hà Nội, bún chả Hà Nội, bún nem Hà Nội, chả cá Lã Vọng mà lại không có bún thì còn gì là ẩm thực Hà Nội nữa.

Cũng từ hạt gạo, người Hà Nội còn làm ra nhiều món ăn độc đáo khác như bánh cuốn Thanh Trì, bánh dày Quán Gánh, bánh giò Ước Lễ, xôi lúa Tương Mai… Nếu không có gạo thì làm sao có bánh đa để làm ra nem rán Hà Nội, làm ra bánh phở để có phở Hà Nội được?

Cũng từ lúa gạo Hà Nội, người Hà Nội cũng đã làm ra nhiều loại bánh trái độc đáo, những loại rượu nổi tiếng mà chỉ Hà Nội mới có.

Ngoài cốm Vòng Hà Nội, bún và các loại bánh làm từ hạt gạo, người Hà Nội còn tạo ra nhiều món ăn, đồ uống đặc sắc khác mà trong bài viết này ta không thể tổng kết, liệt kê hết được. Chỉ có thể khẳng định một điều: Hà Nội có những loại lúa gạo đặc sản của riêng Hà Nội. Hà Nội từ ngàn xưa đã là một trung tâm sản xuất, giao lưu lúa gạo đặc sản và nơi đây đã có nhiều món ăn độc đáo được hình thành và phát triển, tạo nên những sắc thái độc đáo trong văn hóa ẩm thực không chỉ tiêu biểu cho Hà nội mà còn tiêu biểu cho cả nước.



Rau gia vị là thứ không thể thiếu trong mỗi món ăn

Tìm đọc sách cổ như “Nam phương Thảo mộc trạng” của Kê Hàm, ta thấy thời xưa trên xứ này rau cỏ trong bữa ăn của dân ta thực nghèo nàn. Có lẽ trong bữa ăn thời ấy ngoài những rau hoang mọc quanh làng thì chỉ có rau muống phổ biến. Các loại gia vị thời xưa chắc cũng chỉ có vài loại như rau răm, rau ngổ, tía tô… Đại đa số gia vị phong phú có ở Hà Nội ngày nay đều là rau nhập ngoại vào Việt Nam và được người Hà Nội thuần dưỡng và chăm sóc một cách tỷ mỷ đến nỗi tạo thành những loại rau thơm độc đáo mà đôi khi chỉ Hà Nội mới có.

Theo sử sách thì đến thế kỉ thứ XII, đời Lý Thần Tông có chuyện Từ Đạo Hạnh chữa bệnh cho nhà Vua và xây dựng chùa Láng (tức Chiêu Thiền Tự). Tại vườn chùa Láng nay vẫn còn một mảnh đất trồng húng Láng - là một loại rau thơm nổi tiếng của Hà Nội ngàn năm. Nơi đây còn trồng rất nhiều loại rau thơm đặc biệt của Hà Nội.

Có giả thuyết cho rằng để chữa bệnh cho vua, Từ Đạo Hạnh đã lấy giống của rất nhiều cây cỏ có tinh dầu, có hoạt tính mạnh gốc gác từ Ấn Độ, Trung Đông hay Địa Trung Hải đem về trồng làm thuốc. Sau này người dân Hà Nội sử dụng những thứ đó vào thực phẩm và trở thành gia vị. Ta có thể thấy quầy bán “thuốc Nam” trong các chợ Hôm, chợ Hàng Bè, Hà Nội hôm nay có nhiều loại dược thảo cây cỏ vừa ăn được vừa làm thuốc. Nói là thuốc Nam, thuốc dân tộc nhưng không ít thảo mộc ấy có gốc nhập ngoại.

Còn theo Lịch sử Thủ đô Hà Nội thì làng Láng (Hà Nội) xưa là phường Vườn tỏi (Toán viên phường). Vào năm Nhâm Dần (1362), vua Trần Dụ Tông đã sai gia nô ra khai khẩn ruộng đất ở bờ bắc sông Tô Lịch để trồng hành tỏi. Cây tỏi lúc ấy được nhập từ xa về trồng để làm thuốc chữa bệnh. Tỏi sau này đã trở thành một trong những gia vị không thể thiếu được trong ẩm thực của Hà Nội cũng như trong nhiều món ăn Việt.



Tỏi là gia vị quan trọng không thể thiếu trong Ẩm thực Hà Nội
Các loại rau ôn đới cũng mới được trồng và được người Hà Nội biết đến từ đầu thế kỉ trước. Có thể dẫn tư liệu sau để làm ví dụ:

Theo “lịch sử giống rau tây ở Bắc Ninh” của Trần Vĩnh Bảo (1948) thì “Rau tây (hạt giống nhập từ Pháp) được trồng bắt đầu từ năm 1900, xung quanh thành Bắc Ninh và ở Đáp Cầu, làng Hào Đình (Làng Nhồi), huyện Võ Giàng trồng nhiều nhất và hàng năm sản xuất hàng trăm tấn rau tây bán đi Hà Nội và Lạng Sơn. Năm 1912 có 200 hộ nông dân làng Nhồi trồng rau tây, một số nông dân buôn hạt rau của Pháp về bán và gieo bán chân rau. Những loại rau tây sau đây thích hợp với điều kiện đất đai khí hậu vùng Bắc Ninh, Hà Nội: xu hào mềm, xu hào trắng lá nhỏ, súp lơ trắng lùn (tốt và đắt), súp lơ bốn mùa; bắp cải thân ngắn (dresa), chân cao (đỡ tưới), phẳng mặt, bắp ít lá, cuốn to; cà rốt đỏ không lõi; tỏi thước chân cao, ít lá; xà lách…” (trích lại theo Lịch sử Nông nghiệp Việt Nam. NXBNN, 1994, tr 65.)

Chỉ qua một vài khảo sát, ta thấy rõ ràng trên mảnh đất “địa linh nhân kiệt” này, người Hà Nội đã sản xuất ra những sản phẩm ẩm thực độc đáo mà có lẽ chỉ có vùng đất bốn mùa thay đổi, có những “thổ ngơi”… như ở Hà Nội mới có. Đó là một trong những nguyên nhân khiến cho cái nền ẩm thực của Hà Nội trở nên phong phú.

Nét duyên quà sáng Hà Thành

Người Hà Nội sành ăn, nhưng cốt cách tao nhã, nên món ăn nào dù sang trọng hay bình dân cũng phải ngon miệng, đẹp mắt, đủ chất dinh dưỡng… Bữa sáng ăn nhẹ, thường được gọi là “ăn quà sáng”, bởi đó là những thức được mua từ góc chợ, vỉa hè, quán cóc, chứ không cần kì công chuẩn bị trong khuôn bếp mỗi gia đình.

Quà sáng của các bà, các mẹ có thể là cân bánh cuốn tráng mềm, cân bún lá chấm mắm tôm chanh ớt, vài cái bánh nếp, bánh giò nóng, hay nắm xôi hôi hổi bọc trong tấm lá chuối…

Trong nỗi niềm người xa xứ mỗi khi nhớ về Hà Nội, hương vị những món ăn dân dã luôn là nỗi nhớ ngọt ngào, nhiều sắc màu nhất…

Ăn sáng cũng có đủ kiểu cho đủ người, đủ tầng lớp. Các bà, các mẹ, các chị thích đi chợ từ sáng sớm để chọn được những mớ rau tươi mượt, những con cá đồng, những miếng thịt mới pha còn nóng hổi, xong lại tranh thủ mua quà sáng cho cả nhà. Quà sáng của các bà, các mẹ có thể là cân bánh cuốn tráng mềm, cân bún lá chấm mắm tôm chanh ớt, vài cái bánh nếp, bánh giò nóng, hay nắm xôi hôi hổi bọc trong tấm lá chuối…

Những cô, những cậu trai thanh, gái tú đi xe tay ga đắt tiền có thể tạt vào một quán bên đường, ăn phở, cháo, miến, những thứ có “đơn giá hàng chục nghìn” trở lên. Bởi những cô cậu này thích cảm giác buông xe là có người phục vụ chạy ra tận nơi đỡ xe, gạt chân chống, cô cậu chỉ việc đi vào một bàn nào đó, đá ghế ngồi bấm điện thoại choanh choách, hay buôn dưa lê vài phút là có phục vụ bê đồ ăn đến tận nơi.

Những người lao động, bình dân thì chọn quán vỉa hè, với các thức như bánh mì, xôi, bánh nếp, cháo trai, cháo sườn… Họ có thể ngồi xổm, ngồi trên xe, ngồi bệt ở vỉa hè, ăn tranh thủ một thứ quà sáng nào đó rồi lại tất bật đi làm.



Người nội trợ rảnh rỗi, sau khi đi chợ xong, có thể ngồi thưởng thức bát cháo trai nóng nghi ngút, thơm mùi rau răm, hành phi vàng rộm, hoặc xuýt xoa cùng bát bún ốc nóng hổi, bát chè sen thanh nhã…

Quà sáng Hà Nội rất phong phú, có lẽ nhiều hơn con số 72 mà một nhà Hà Nội học đã sưu tầm, liệt kê. Có thứ quà dành cho người bình dân, có thứ quà dành cho người sang trọng.

Đa dạng và được ưa chuộng nhất phải kể đến các món bún, cháo, phở. Bún thì có bún bò, gà, mọc, thập cẩm, bún ốc, riêu cua, bún cá, bún thang, bún trộn, bún đậu mắm tôm… Riêng phở cũng có tới cả chục món: nào phở bò, phở gà, phở thập cẩm, tái, chín, nạm, gầu, phở trộn, phở xào, phở cuốn… Cháo thì có cháo trai, cháo hến, cháo cá, cháo sườn, cháo gà, cháo vịt… chưa kể đến các “họ hàng” nhà bún, phở như bánh đa, miến, sủi cảo, vằn thắn…

Dù là thứ quà chỉ đáng giá vài ba nghìn hay những thứ quà sáng sang trọng có giá vài chục nghìn thì mỗi loại đều có những vẻ ngon, hấp dẫn khác nhau.

Nồi bún, phở ở Hà Nội, có lẽ đặc trưng nhất là nước dùng và hương liệu ướp trong đó. Nước dùng ngon ngọt đậm đà, được hầm từ xương ống, nêm nếm gia vị với những bí quyết riêng, lúc nào cũng bốc khói nghi ngút luôn hấp dẫn được khách hàng mọi lứa tuổi.

Bát bún ốc sóng sánh màu vàng của chút nghệ, điểm vài lát cà chua, nêm với ớt chưng, rồi chan với dấm ngâm ớt tỏi, vừa ăn vừa xuýt xoa, cay đến chảy nước mắt mà vẫn ngon đến lạ.



Bún thang ở Hà Nội, ai ăn một lần cũng khó quên hương vị. Bát bún nhất thiết phải có chút giò lụa lát mỏng, trứng tráng vàng thái chỉ, gà xé phay, ruốc tôm, chan với nước dùng hầm từ xương ống, tôm khô, khi ăn cho thêm chút mắm tôm, cà cuống, ăn kèm rau thơm, giá sống, chanh, ớt…

Cháo Hà Nội cũng có một đặc trưng rất riêng. Người Hà Nội ăn cháo đặc, chứ không ăn cháo loãng như một số vùng miền khác. Cháo nấu phải có độ sánh, mềm mượt do nấu từ thứ gạo ngon, có pha nếp, hạt gạo được canh cho nở vừa độ. Nước để nấu cháo không phải là thứ nước lã lỏng toèn toẹt, mà nhất thiết phải có chút xương ống, xương đầu chối hầm kĩ chắt nước, rồi mới chế gạo vào, nên cháo ngọt đậm, không cần mì chính cũng thơm ngọt mềm đầu lưỡi.

Cháo thường được ăn kèm với hành lá, gia vị. Cháo sườn thì không thể thiếu hành lá, mùi thơm, mùi tàu. Cháo trai thì chẳng thể thiếu “cái anh lá răm” được, những bát cháo trắng nghi ngút, chế thêm vài thìa ruột trai đã được tẩm ướt, xào chín, cho chút rau răm, hành lá, rắc chút tiêu hoặc ớt bột, vừa ăn vừa xuýt xoa, mới thấy thú vị làm sao.

Bát phở ở Hà Nội cũng không đầy tú ụ bánh, mà chỉ một nhúm bánh mỏng, mềm mượt, được chần kĩ, trên mặt bát phở, bày “phụ gia” theo yêu cầu của thực khách, như thịt gà, hoặc bò, tái, chín, nạm gàu, rắc rau thơm, rồi chan vài muôi nước trong vắt nhưng thơm đậm mùi quế, hồi, hầm với xương ống.



Trong các thúng tre nghi ngút khói là “góc riêng” của xôi, chỉ vài ba nghìn là đã có thể thưởng thức một nắm xôi xéo, xôi ngô, xôi đậu, hay xôi gấc. Có hàng còn cầu kì với xôi chiên, xôi thịt, giò, chả, ruốc. Vào những buổi sớm mai, khi tiết trời còn se lạnh, được ngồi ở một góc nhỏ, ăn nắm xôi nóng nghi ngút, gói khéo trong tấm lá chuối, lá dong, thơm lừng mùi đậu đỗ, hành phi, nhấm nháp những hạt nếp mẩy mượt, cũng là cái thú bình dân quá đỗi thi vị.

Quà sáng ở Hà Nội được bán từ rất sớm để phục vụ cho những anh chị “hàng sáo”, những người buôn bán sau buổi chợ đêm, những bác xe ôm, những anh thợ xây, thợ nề, người đi chợ sớm, người đi làm xa…

Dù bình dân hay cao cấp, đã đến hàng quà sáng, bạn đều nhận được một thái độ phục vụ chu đáo, cởi mở như nhau. Dù tiền ít, hay tiền nhiều, bạn cũng chắc chắn sẽ tìm được cho mình một thứ quà sáng nào đó để lót dạ cho ấm bụng, sẵn sàng cho một ngày lao động mới…

Quà sáng Hà Thành, giống như một nét duyên thầm dịu dàng của chốn kinh kì, văn hiến…

Món ngon ngõ nhỏ, vỉa hè đất Hà Thành

Vỉa hè là quán ăn, chỉ cần một vài chiếc bàn con, một vài chiếc ghế con là người ta có thể xì xụp, thích thú thưởng thức đủ loại món ăn. Giữa bụi bặm đường phố, lê la vài con ngõ, thưởng thức chút hương vị Hà Thành. Đó là cái thú ẩm thực của người Hà Nội. Những quán kể dưới không mới, nó quá quen thuộc với rất nhiều người, từ già tới trẻ, từ người đi xa hay vài lần tới tham quan du lịch Hà Nội.

Những người bạn Sài Gòn của tôi rất ngạc nhiên khi tôi dẫn họ đi ăn ở những quán vỉa hè ven đường hoặc quán lụp sụp. Nhưng tôi bảo muốn ăn ngon và ăn lạ thì phải ngồi những quán như thế. Một vài bữa, họ nghiện luôn những kiểu quán như thế...

Buổi tối những ngày đầu hè, tiết trời mát mẻ, Hà Nội trong lành, mời bạn dạo quanh những cửa hàng vỉa hè, ngõ nhỏ thưởng thức những món bình dị của người Hà Nội.

1. Nem chua - Ngõ Tạm Thương, hàng Bông

Ngõ Tạm Thương, ngõ phố nhỏ xíu nằm trên đường hàng Bông, cái ngõ phố rất đặc trưng cho kiểu ngõ phố cổ Hà Nội, đường vào bé tý bé tẹo, hai cái xe lách qua nhau cũng khó khăn. Cả ngõ phố không có lấy một cái mặt tiền ngôi nhà nào trông hiện đại, mới mẻ, tất cả đều nho nhỏ, cũ cũ.



Cứ chiều tối, ngay đầu ngõ có hàng chục thanh niên tay vẫy, miệng ơi ới:" Nem chua rán đi anh chị ơi...". Đầu ngõ chật ních những xe là xe. Không giống với kiểu vẫy gọi nài ép như ở phố lẩu Phùng Hưng và Cao Bá Quát, các chàng thanh niên ở phố nem rán này rất lịch sự. Hỏi ăn của nhà ai, chỉ nhà nào là người giữ xe của nhà ấy chạy ra dắt xe, không ai lô xô vào mà mời mọc, giành giật lấy khách về nhà mình.



Nem rán ở đây ăn khá ngon. Nem được rán lên vừa phải, không bị ngậy mỡ ăn lại giòn chứ không bị dính dính như các nơi khác. Ăn nem rán chấm tương ớt, cùng món xoài xanh, củ đậu hay dưa chuột. Có quán còn phục vụ cả khoai tây chiên bơ tỏi chấm với xì dầu.

Mỗi quán trong ngõ, quán nào quán ấy đều nhỏ xíu, ghế ngồi là những chiếc ghế nhựa con con xếp thành hàng dọc, hơi chật chội khó ngồi nhưng có như thế mới "nếm " hết cái vị của kiểu ăn quà vặt Hà Nội.

2. Bánh gối - Lý Quốc Sư

Quán Gốc Đa nằm trên đường Lý Quốc Sư dễ đến ngoài hai mươi năm. Quán có tên là Gốc Đa có lẽ do quán nằm “tựa lưng” bên một gốc đa cổ thụ. Món truyền thống của quán là món bánh gối nhưng mấy món như bánh rán, bánh bao, nem cua bể… giờ cũng được quán thêm vào thực đơn để chiều lòng những thực khách hay quà Hà Nội.



Nét hấp dẫn của bánh gối ở đây chính là lớp vỏ bánh mỏng, nhiều nhân ăn thấy giòn lại thơm chứ không bị ỉu. Chiếc bánh đã cắt nhỏ ăn kèm với nước chấm chua ngọt bỏ thêm chút tương ớt cay cay, gắp miếng đu đủ thêm vài cọng rau thơm là đủ vị. Ăn xong thực khách có thể gọi thêm cả cốc trà Bát Bảo tráng miệng, giá đắt hơn vỉa hè một nghìn đồng nhưng vị lạ lại rất ngon.



Quán có phong cách khá độc đáo. Vì đông khách nên phục vụ ở đây dường như cũng được chuyên môn hóa từng công đoạn. Mỗi người của quán cứ theo nhiệm vụ mà làm, người chuyên rán, chuyên vớt, chuyên cắt bánh, chuyên bưng bê phục vụ. Còn với khách, ăn xong cứ theo bảng giá mà tính tiền, mặc dù ra cửa sẽ có người tính lại.


3. Nem Tai - Hàng Thùng


Ở Hàng Thùng có quán nem tai Bà Hồng đã trở thành địa chỉ thường xuyên của không ít người Hà Nội. Bạn bè gặp mặt thường rủ nhau đi thưởng thức món nem Bà Hồng, những đôi trai gái yêu nhau cũng lui tới quán này như một chỗ để ăn vui. Món nem tai được ăn theo dạng cuốn. Một ít lá sung, lá đinh lăng, dải lên bánh đa nem, cho nem tai vào, kèm với một vài miếng sung muối chua, cộng với một lát giò lụa hoặc nem chua. Sau đó cuốn tròn rồi chấm vào nước mắm dấm cay nhẹ.



Độ dai của bánh đa nem, độ giòn, mềm, thơm ngậy của nem tai, cộng với một chút vị chan chát, xin xít của rau kèm và vị chua chua, ngòn ngọt, cay dịu của nước chấm sẽ làm khách đến thưởng thức nhớ mãi. Trong món ăn này, rau ăn kèm là một phần không thể thiếu. Đĩa rau kèm của quán bà Hồng có trên chục loại nào lá sung, lá đinh lăng, kinh giới, xà lách, lá mơ… khách thích dùng loại rau kèm nào cũng có.



Tưởng chỉ riêng người Hà Nội mới thích mấy món ăn bốc chấm nước mắm này ấy thế mà cả người Tây cũng ham. Có vị lầm tưởng bàn ăn ở đây sạch như bàn ăn ở nước họ nên cứ hồn nhiên dải bánh nem lên bàn cuốn cuốn gói gói, trông đến ngộ. Lại có có người tận Sài Gòn, ra Hà Nội chơi còn cố qua cửa hàng mua một chút nem tai để làm quà cho người nhà.


4. Hoa quả dầm - Tô Tịch

Phố Tô Tịch dài khoảng một trăm mét, nằm hơi khuất trên đường Hàng Gai. Từ đầu phố đến cuối phố có đến gần chục cửa hàng hoa quả dầm nằm san sát nhau. Mới dừng chân ở đầu phố, người đi đường dễ dàng bị quyến rũ ngay bởi sắc màu và hương thơm hấp dẫn của những loại quả này. Quán nào cũng có hàng chục loại quả bày ngay trên mặt quầy. Quả được cắt thành những miếng nhỏ vừa miệng rồi cho vào cốc. Khách ăn có thể đếm được trên chục loại quả trong cốc của mình nào dưa hấu, xoài, mẵng cầu, bơ, dưa vàng, mít, nhãn, trân châu đen… được xếp theo trình tự màu sắc xanh, đỏ, vàng rất hấp dẫn và bắt mắt.



Khi có người đến ăn, chủ quán mới bỏ ra và rưới lên trên cốc quả một ít sữa đặc và nước cốt dừa. Sữa và nước dừa sẽ ngấm vào từng miếng hoa quả đã cắt nhỏ làm tăng thêm hương vị ngọt và thơm ngậy, cuối cùng là cho một ít đá xay mịn lên trên. Sự đặc biệt của loại đồ uống này là không dùng đường mà chỉ cho sữa vào để làm tăng vị ngọt nên có vị ngọt mát và thơm ngậy Đến phố Tô Tịch, khách hàng có thể yêu cầu chủ quán xay sinh tố những loại quả mình thích. Phong cách phục vụ tại những quán này cũng rất cơ động, khách có thể ăn ngay tại quán hoặc nếu thích mang về, chủ quán sẽ cho vào một cốc nhựa, có kèm cả thìa và ống mút...

Giá cả cũng rất phải chăng, dao động từ 10.000 - 20.000đ/1cốc, khách hàng đến đây phần đông là thanh niên, học sinh, sinh viên.

5. Caramen – Hàng Than

Với người Hà Nội thì Caramen chẳng đâu ngon như ở Hàng Than. Caremen hàng Than ngon bởi vị nước hàng, mùi ca phê, kem ăn ngọt ngậy hay từ vị đăng đắng của thứ nước đen sánh trên mối đĩa caramen. Quán ở đây đã tồn tại rất lâu đời nhưng đúng chất vỉa hè. Ghế nhựa nhỏ, cốc nhựa, thìa nhôm đơn giản. Bàn cũng là ghế, nhưng chủ yếu ghế là để ngồi. Những lúc đông khách mỗi người ngồi một chiếc ghế tay cầm đĩa caramen và thìa ăn mới đủ chỗ.



Nếu nói là chen chúc cũng đúng vì trên mỗi đoạn vỉa hè nhỏ xíu, mà lúc nào ghế cũng xếp chật ních. Người sát người, tay bê đĩa, bê cốc, tay cầm thìa… thế mà lại thành ngon nên vào mùa hè, quán chẳng bao giờ ngớt khách thậm chí cả mùa đông cũng vẫn đắt hàng.




Ở đây có nhiều loại Caramen lắm: caramen chân châu, caramen dừa, caramen hoa quả… rồi cả món caramen thập cẩm nữa. Có khoảng 10 món cho bạn lựa chọn. Nhưng nếu đã thành dân nghiền món này thì người ta chỉ gọi một món “caramen mộc” – tức là món caramen trứng truyền thống.

6. Nộm thịt bò – phố Hồ Hoàn Kiếm

Thật ra, trước kia ở phố Hồ Hoàn Kiếm này mới chỉ có một vài nhà bán nộm bò khô, nhưng dần dần thấy lượng khách ngày một đông, nhiều nhà cũng chuyển sang bán theo. Đến bây giờ con phố nhỏ dài vẻn vẹn không đến 300 m mà có tới gần chục quán hàng bán thịt bò khô với hàng lô dãy bàn ghế để san sát trên vỉa hè. Cũng là đĩa nộm bò khô với những nguyên liệu như đu đủ xanh nạo, thịt bò, rau thơm, lạc rang, nước sốt nhưng khi ăn ở những quán này, bạn sẽ cảm nhận rất rõ được vị giòn của đu đủ xanh nạo, vị thơm ngon hơi dai của những miếng thịt bò rán khô được tẩm ướp gia vị kỹ lưỡng, vị béo ngậy của lá lách, vị sừn sựt của gân, sách, vó bò và đặc biệt là vị chua cay mặn ngọt pha rất vừa phải của nước sốt.



Ngoài nộm bò khô, còn có thêm chim sẻ, chim câu quay để chiều lòng thực khách có nhu cầu thay đổi khẩu vị. Các quán nộm bò khô này mở hàng bắt đầu từ 5 giờ chiều và kéo dài đến tận 11-12 giờ đêm.

7. Cơm rang bò – Mã Mây

Trên đường Mã Mây hình thành một phố cơm rang bò thu hút rất đông người đến ăn. Các hàng cơm rang bán tập trung vào buổi chiều tối, vì lúc này mới là lúc được bày các loại bàn ghế ra vỉa hè. Cơm rang ở đây không giống như các loại cơm rang thập cẩm có đủ các thứ đậu quả, xúc xích, lạp xườn xanh xanh đỏ đỏ mà các nhà hàng ăn uống khác hay làm.



Cơm rang ở đây trắng, gạo rất ngon nên ăn không với nước chấm đã ngon rồi, thịt bò và dưa xào để riêng ra một đĩa. Nước chấm pha tương ớt chua chua, cay cay ăn với món cơm rang mằn mặn này quả là không chê vào đâu được. Cả một đoạn phố này đêm nào cũng tưng bừng nhờ các hàng cơm rang và phố cơm rang này khá nổi tiếng với người dân Hà Nội.

8. Ngao, sò, ốc... nướng Cầu Gỗ

Ai mê mấy hàng đồ biển nướng, hấp thì đến khu phố Cầu Gỗ gần chợ Hàng Bè. Đêm nào ở đây cũng nhộn nhịp như đi hội, các bà hàng ngồi quạt than nướng sò, mực...khói bay mù mịt cùng mùi thơm tỏa ra khiến ai đi qua cũng thèm.



Người ăn ngồi tràn lan trên vỉa để thưởng thức. Giá cả ở đây rẻ hơn nhiều lần ở các nhà hàng mà lại được ngồi trong không khí vừa nấu, vừa nướng, vừa hấp... có khác nào mấy cái nơi gọi là làng Nướng gì đó giá cắt cổ mà chưa chắc đã tươi bằng ở phố vỉa hè này.



Hà Nội nhiều phố, mỗi con phố lại khó nhớ tên. Nhiều khi người ta thuộc tên phố, tên ngõ chỉ vì ở đó có những món hàng ăn ngon, độc đáo khiến người ta muốn quay trở lại luôn luôn. Một góc nhỏ như vậy thôi cũng đủ làm những người đi xa Hà Nội hay tạm xa Hà Nội nhớ nhung và thèm quay trở lại.

Ngọt thơm xôi chè bà cốt Hàng Bồ

Cứ mỗi khi gió mùa Đông Bắc bắt đầu ùa về trên những phố phường, người Hà Nội lại háo hức ghé phố Hàng Bồ để đợi chờ thưởng thức món xôi chè nóng hổi, thơm quyến rũ. Còn gì tuyệt hơn bưng bát chè nóng co ro giữa góc phố cổ trong cái lạnh mùa đông Hà Nội.



Có thể nói quán xôi chè Hàng Bồ này là một trong những quán hàng truyền thống Hà Nội. Bà chủ quán ngồi tựa vào một góc tường, cạnh con ngõ nhỏ đậm chất Hà Nội, xung quanh kê thêm vài chiếc ghế con, thế mà thành một địa chỉ bán xôi chè nổi tiếng có một không hai đất thủ đô.



Đến quán xôi chè Hàng Bồ là chấp nhận khó tìm chỗ để xe, có khi phải đợi chờ mới có ghế ngồi, và cũng chẳng dám ngồi nấn ná lại lâu, thế nhưng chẳng thấy một ai kêu, mà đều kiên nhẫn đợi.



Nhưng quả thật khi bát xôi chè bưng ra, mới thấy bõ cái công đợi chờ, chật chội. Xôi được đồ rất dẻo, thơm, có màu vàng thật ngon mắt. Gạo nếp được chọn là loại nếp cái hoa vàng hạt mẩy, có tiếng. Xôi ở hàng dẻo mà không nát, không dính bết cũng chẳng rời rạc, ăn miếng nào là thích mê miếng ấy.



Chè để ăn kèm thường là chè bà cốt, nấu bằng đường đỏ. Nhìn bát chẻ vàng óng điểm nâu như màu mật ong, trộn với miếng xôi vàng rộm, hít hà hương thơm ngòn ngọt của chè, có chút cay nồng của gừng thì chẳng ai kiềm lòng được.



Vì là món đặc sản Hà Nội nên chè bà cốt thường hết sớm nhất. Tuy nhiên, nếu không thích vị ngọt sắc, hoặc chẳng may đến vào lúc hết chè bà cốt, bạn có thể gọi chè hoa cau ngọt thanh, rắc chút đỗ xanh hay chè đỗ đen mịn, đặc quánh, ngọt vừa, ăn với xôi cũng được mà ăn riêng cũng thơm ngon tuyệt vời.



Muốn mua về nhà ăn vặt, bạn có thể chọn chè cốm và chè con ong, gói trong túi nilon trong, bày đầy trên khay. Giá mỗi bát chè chẳng đắt so với một quán hàng đặc sản Hà Nội. Chỉ với 15.000 đồng là bạn có thể bưng bát chè trên tay, xuýt xoa, co ro trong góc phố, tận hưởng cái lạnh mùa đông Hà Nội.

Phố ăn đêm của người Hà Nội

Khi ánh đèn đường vàng vọt, màn đêm đã buông xuống, không khó để tìm một chỗ ăn đêm ở Hà Nội như phố Cấm Chỉ, Lãn Ông hay Cầu Gỗ.

Phở Hà Nội thì đâu cũng ngon, bất kể ở ven đô hay trung tâm thành phố. Muốn ăn một bát phở đêm ngon có lẽ không đâu bằng những quán phở ở các khu phố cổ Hà Nội. Đó là phở Mậu Dịch phố Lý Quốc Sư, phở Tự Do phố Cầu Gỗ, phở Thìn Lò Đúc, phở ngã từ Hàng Đồng và Hàng Mã, ăn thật muộn thì đến Hàng Buồm hay phở đường tàu trên Trần Quang Khải.

Một số món ăn đêm rẻ ở Hà Nội, ngon và dễ ăn như: bún bò, bún măng ngan, cháo gà… ở khu Cửa Nam, ga Trần Quý Cáp, phố Hai Bà Trưng hay ngõ Tô Hoàng.


Bát phở nóng xua tan cái lạnh đầu mùa. Ảnh: Còi Xinh.

Bạn không nên bỏ qua phố ẩm thực Hà Nội, phố Cấm Chỉ. Tô cháo và với tiêu, ớt bột cùng hành hoa sẽ làm ấm lòng người giữa đêm khuya. Cơm rang thập cẩm ở phố này, phố Mã Mây và phố Hàng Dầu cũng rất ngon. Trong số các món ăn đêm của Hà Nội, hầu như ai cũng muốn thử món nộm bò khô ở phố Hồ Hoàn Kiếm. Một chút đu đủ, cà rốt nạo, thịt bò khô cắt mỏng như sợi tăm chan dấm, rắc thêm ít kinh giới và lạc rang giã nhỏ thì ngon tuyệt mà giá cả lại rất bình dân.

Ở đầu phố Hàng Gai và Lương Văn Can có tới gần 20 hàng mực nướng. Đám 5-7 người mua vài con mực nho nhỏ, một chai rượu là có thể lai rai cho tới sáng. Mấy quán chân gà nướng, gà luộc ở phố Hàng Dầu, Mai Hắc Đế thì đông khách quanh năm.


Bánh trôi tàu thơm nóng vị gừng cay.

Dọc phố Lãn Ông, phố Cầu Gỗ, nào bún thang, nào phở trộn, nào mì vằn thắn và cả bánh mì patê thơm thơm, giòn giòn. Trong góc phố Gầm Cầu ngào ngạt lòng nướng, bò nướng. Nếu không lên Phó Đức Chính cũng ăn được món bò nướng thơm ngon. Ăn rồi, chạy đến ngõ Tạm Thương ăn nem chua rán, qua Tô Tịch làm ly hoa quả dầm hay leo Hàng Than làm cốc caramen béo ngậy, ghé qua đầu phố ăn bát bánh trôi tàu nóng hổi.


Ăn xong là đến giờ trà đá vỉa hè Hà Nội.

Hà Nội về đêm còn có các món quà vặt dân dã đã được bán theo mùa như ngô nếp nướng, ốc luộc, quẩy nóng, bánh chuối… Lang thang những con phố Hà Nội trong đêm thu và nhâm nhi chút hương vị riêng trong ẩm thực Hà Nội là một trong những điều thú vị nhất khi đến với mảnh đất nghìn năm văn hiến này.