Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

Bâng khuâng trước Hồ Khuôn Thần

(Mytour.vn) - Nằm yên ả, thanh bình và duyên dáng giữa ngút ngàn thông reo và trập trùng những dãy đồi vải thiều xanh miên man cùng khoảng trời trong xanh thoáng đạt in dấu mặt hồ trong biếc, đó là những điểm nhấn riêng có của hồ Khuôn Thần, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.

Hồ khuôn Thần hấp dẫn với những dãy núi, những ngọn đòi và một cảnh quan hùng vĩ chốn sơn trang. Ở giữa vùng rừng núi xuất hiện một cái hồ to, sâu và rộng. Làm cho nơi đây càng trở nên hấp dẫn hơn, cuốn hút hơn.


Từ thành phố Bắc Giang theo quốc lộ 31 đi khoảng 40 km lên đến trung tâm ngã tư Đài Phát thanh -Truyền hình Lục Ngạn, sau đó rẽ trái 9 km, du khách sẽ tới khu du lịch Khuôn Thần. Nơi đây được thiên nhiên ban tặng vẻ đẹp nguyên sơ, thanh bình với hồ nước trong xanh, không khí thoáng đãng, bao quanh  là những đồi vải, đồi thông ngút ngàn.

Khuôn Thần là một hồ nước rộng rộng 240 ha, bao quanh bởi những đồi vải, đồi thông bạt ngàn và xanh mướt. Đây là một khu du lịch còn nhiều tiềm năng của xã Kiên Lao, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
Đến Khuôn Thần, du khách sẽ có cơ hội khám phá “lá phổi xanh của miền Lục Ngạn” với 5 đảo thông xanh tốt quanh năm, đồng thời du thuyền trên mặt hồ, ngắm cảnh trời mây non nước. Đặc biệt, vào mùa mưa, du khách có thể quan sát nước chảy từ  đỉnh đập Khuôn Thần đổ ào ào xuống thung lũng ven hồ. 


Đến Khuôn Thần còn là đến với những khu trang trại, vườn cây ăn quả xanh tươi, rộng ngút ngát. Đây cũng là cư trú, nuôi dưỡng và bảo tồn những giá trị văn hoá độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số như: người Sán Chí, Cao Lan, Tày, Nùng… Tới đây, du khách sẽ có cơ hội thưởng thức những đặc sản nổi tiếng như cá nướng, mật ong, rượu tắc kè, hạt dẻ, vải thiều, hồng… hay lắng nghe những làn điệu dân ca soong hao, sli trữ tình của dân tộc Nùng, người Tày…

Với du khách thích thong dong cuốc bộ, có thể  đi dạo ven hồ, ngắm cảnh hồ nước, thuyền bè đi lại trên sông, cảnh đàn trâu ngựa gặm cỏ trên đôi hay lắng nghe những bản nhạc thông reo dưới nắng chiều chiều hoàng hôn. Khuôn Thần chắc chắn sẽ địa điểm du lịch cuối tuần thú vị mà bạn nên đến.


Đến Khuôn Thần, du khách có thể thả hồn trên du thuyền cảm nhận sự mênh mông, tĩnh lặng của mặt hồ, ngắm cảnh trời mây, non nước. Đặc biệt, vào mùa mưa, du khách có thể quan sát nước chảy từ đỉnh đập Khuôn Thần đổ ào ào xuống thung lũng ven hồ.

Điểm dừng chân đầu tiên du khách sẽ bắt gặp là bạt ngàn màu xanh của rừng, màu xanh của trời mây, non nước… Vượt qua những sườn dốc thấp, ta gặp một không gian bao la của hồ nước. Cảnh đẹp thiên nhiên của Khuôn Thần hết sức kỳ thú, mang lại một môi trường sinh thái trong lành, một cảnh quan giao hòa giữa khí - trời - đất.

Tại đây, du khách sẽ được đắm mình trong một cảnh sắc thiên nhiên còn hoang sơ, huyền ảo. Được bồng bềnh trên những con thuyền dạo ngắm cảnh sắc trên mặt hồ. Lên tới đỉnh đập nước hồ Khuôn Thần, du khách có thể quan sát một khung cảnh mênh mông, bao la thật hùng vĩ và thơ mộng, thấy được cảnh quan trùng điệp của núi rừng mờ xanh hùng vĩ.

Du khách đến Khuôn Thần không chỉ được dạo chơi trên hồ bằng thuyền mà còn được ghé thăm các trang trại vườn cây ăn trái xanh tươi rộng ngút ngàn tầm mắt. Đây cũng là nơi cư trú, nuôi dưỡng và bảo tồn những giá trị văn hoá độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số như: người Sán Chí, Cao Lan, Tày, Nùng với những làn điệu dân ca tình tứ… Sau một hồi du ngoạn trên thuyền, du khách sẽ có cơ hội thưởng thức hương vị ngọt ngào của những đặc sản: mật ong, rượu tắc kè, hạt dẻ, vải thiều, hồng, na… của đồng bào các dân tộc như Kinh, Cao Lan, Tày, Sán Chí, Nùng. Đặc biệt phải kể đến là món cá. Ai đã từng thưởng thúc món cá bống nướng trên bếp than của đồng bào dân tộc nơi đây thì không thể nào quên.



Nếu những ai thích khám phá những kỳ thú của thế giới tự nhiên thì có thể ghé thăm các đảo nổi là những vùng đồi bát úp nổi lên giữa lòng hồ. Không gian tĩnh lặng, bình yên, trữ tình rất hợp cho những câu chuyện tâm tình trên thảm cỏ xanh, dưới những hàng thông vi vu trong gió mát. Những khi cảm thấy mệt mỏi bạn có thể thấy ngay những cánh võng đu đưa dưới những gốc cây trong vườn nhãn. Bạn có thể vừa nằm võng, vừa thưởng thức hương vị ngọt đậm đà của những chùm vải thiều chín mọng.

Không những thế, đến đây du khách còn được tham quan đền Từ Mã thờ danh tướng đời Trần đã được Nhà nước xếp hạng Di tích văn hoá. Đặc biệt, nếu qua đêm ở đây vào những dịp nông nhàn, dưới ánh lửa bập bùng, du khách sẽ có cơ hội tham dự các buổi sinh hoạt văn hoá truyền thống với những điệu hát Soong hao, Si, Lượn... làm say đắm lòng người của đồng bào dân tộc ít người sinh sống quanh khu vực hồ.

Đến hồ Khuôn Thần, là đến với cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp, về với miền đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa. Nếu có dịp nghé thăm Khuôn Thần, chắc chắn du khách sẽ có những trải nghiệm lý thú, khó quên về mảnh đất, con người và vẻ đẹp mộng mơ, sức hấp dẫn kỳ lạ của thiên nhiên hoang sơ, duyên dáng như cô gái xuân thì, quyến rũ giữa chốn sơn trang.

Hành trình xuyên mây Đà Lạt- Nha Trang

Con đèo dài trên đường Đà Lạt - Nha Trang chưa được đặt tên chính thức, thường được biết đến với tên đèo Hòn Giao, do chạy gần đỉnh núi Hòn Giao, nằm trên hai tỉnh Lâm Đồng và Khánh Hòa.

 

Đèo này còn được biết đến với những tên gọi như đèo Khánh Lê, Khánh Vĩnh, Bidoup, Long Lanh và một tên gọi của riêng dân du lịch: đèo Omega.

Sau bao nhiêu cái hẹn với đèo Omega, bất chợt một ngày, tôi cũng thực hiện được ước mong.

4 giờ 30 sáng, bến xe Đà Lạt vắng bóng người. Sương mù dày đặc. Những ánh đèn bị che khuất bởi sương mờ nên càng lung linh huyền ảo. 4 giờ 45 phút, hội ngộ cùng những người bạn đồng hành khác, cả đoàn bắt đầu leo lên xe máy thẳng tiến đèo Omega.

Con đường này tôi chưa từng đi. Vì vậy nghe bảo đi đèo Omega, đi chụp bình minh, tôi háo hức đi lắm. Nhưng đi hoài chẳng thấy có cái biển báo nào chỉ dẫn con đường phía trước là lên đèo Omega. Anh xế giải thích đèo này chưa có tên chính thức, và có nhiều tên. Trong những cái tên đó, tôi ấn tượng nhất cái tên đèo Long Lanh. Và có lẽ nó long lanh thật.

Đầu tiên, anh bạn chở tôi đi với vận tốc 30km/giờ. Sương mù dày đặc, đến nỗi cách nhau 10m chẳng nhận ra mặt nhau. Lái xe không dám chạy quá nhanh vì sợ không xử lý kịp. Thi thoảng, bắt gặp một chiếc ô tô thì nối theo đuôi mà chạy.

Con đường phía trước mờ sương

Mặc dù sương dày thế nhưng tôi háo hức lắm. Nên cố mở mắt thật to đều ngắm mọi vật mờ mờ ảo ảo hai bên đường. Chẳng thấy lạnh tẹo nào. Hay có lẽ bao nhiêu lạnh, "bác tài" đã hứng trọn cho tôi rồi thì phải.

Có những lúc anh bạn xế của tôi thốt lên: "Trời ơi tui đang chạy đi đâu đây?".

Lạ không, không lạ. Vì con đường phía trước mờ sương, ta có cảm giác mình không thể biết được phía trước đang đón chờ mình như thế nào. Tôi cố gắng bấm nhanh những tấm ảnh khi xe đang chạy, nhưng tới tấm thứ 3 là ống kính đã nhòe hơi sương.

6 giờ sáng, mặt trời ngủ quên, chẳng thấy reo tia nắng ấm áp nào xuống. Rồi cũng nhanh lắm, vèo một cái, nắng tưng bừng khắp nơi, len lỏi qua từng ngọn cây thông cao, qua từng màn sương mờ ảo.

Và mặt trời đã xuất hiện ... ấm áp. .. đẹp lung linh

Có lẽ vì được mặt trời mang ấm áp tới nên khi xe tiếp tục lăn bánh, cả bọn nhìn nhau cười. Tốc độ vẫn đều đều. Không thể chạy nhanh hơn khi những ngón tay và ngón chân đang tê buốt vì sương lạnh. Mọi chịu đựng trong sương giá được đáp trả bằng nơi mà em gọi là chốn bồng lai tiên cảnh. Đám mây dưới núi nhìn xa lắm, cứ tưởng là mình đang ở trên trời mà nhìn xuống hạ giới vậy.

Bên dưới là hạ giới

Nhưng rồi một đoạn nữa thôi, chúng tôi đã bắt đầu len lỏi vào trong vùng mây trắng xóa ấy.

Bắt đầu hành trình xuyên mây

Những em bé đi học

Sinh ra và lớn lên ở Pleiku cũng là "phố núi cao, phố núi đầy sương" nhưng có lẽ lâu lắm rồi tôi mới có được cảm giác đi xuyên mây và sương như vậy. Tại chỗ sương mù dày đặc nhất, khi mà mặt trời đã lên cao, ánh nắng chói chang mà vẫn không thể len lỏi qua màng sương. Nhìn cứ như là mặt trăng giữa ban ngày vậy.

Bà con ra chợ sớm

\

Lên đèo

Và những con suối từ trên núi đổ xuống nước trong vắt mát lạnh

Rời khỏi sương sớm thì mặt trời đã lên thật cao. Đoạn đèo này quá đẹp cho những ai muốn săn ảnh núi mây bồng bềnh mà không có điều kiện lên Tây Bắc hay Đông Bắc.

Xuống đến chân đèo, cả nhóm dừng ăn sáng, rồi lại quay lại đèo để cảm nhận lần thứ hai. Quang cảnh đã thay đổi rõ rệt. Cho nên mới nói đứng ở một chỗ ở những thời điểm khác nhau sẽ có những cảm nhận rất khác nhau.

 

Có phải em, mùa thu Hà Nội?

Đã từ lâu trong thơ ca nhạc họa, mùa thu Hà Nội đã được khắc họa đầy sự quyến rũ, lãng mạn bằng sắc hoa, dáng người, nhịp sống Hà thành trong cái nắng dìu dịu hòa lẫn với những cơn gió hiu hiu mát. Vì thế, Hà Nội vào thu đã làm say đắm không biết bao nhiêu tâm hồn thơ bởi sắc vàng của cây cơm nguội, màu lá đỏ của cây bàng, màu trắng của hoa sữa thơm, màu xanh của cốm vòng đã tạo nên bức tranh thu đầy màu sắc.

 

Nhưng có lẽ sự quyến rũ của thu Hà Nội không chỉ có thế, ngay cả người Hà Nội cũng bị mê mẩn bởi những gì bình dị, tĩnh lặng, tuy ngày càng khó tìm, tại mỗi góc phố thân quen mỗi khi thu về.
Hà Nội tuy vẫn thế, vẫn những cửa hàng bán đồ lưu niệm với nón lá, mặt nạ, con rối…vẫn những góc phố chằng chịt dây điện, hay những con đường chở đầy nắng gió thu, nhưng sao bình dị, mượt mà đến thế khi cảm giác sang mùa đã bao trùm trên phố. Ngay cả những vòm cây, con phố, ngõ nhỏ cũng chợt gần gũi nhưng vẫn rất nghệ thuật mỗi khi nắng thu về, bất chợt những góc phố cũng trở thành tấm toan vẽ nên cuộc sống bình yên như Hà Nội vốn có.
Những dây nón “tí hon” dùng làm quà lưu niệm cho du khách mỗi lần đến Hà Nội giống như những chiếc chuông gió, tuy không lanh canh tạo ra âm thanh vui tai nhưng lại sâu lắng reo vui không lời trong những cơn gió thu thoảng nhẹ.
Ngõ nhỏ, phố nhỏ nhà tôi ở đó.
Một khoảng trời thu nơi phố Tô Tịch. Đây là một phố nhỏ có các cửa hàng hay bán, khắc con dấu và đồ lưu niệm cho du khách nước ngoài.
“Phơi mặt” cùng sương gió với những hỉ nộ ái ố của cuộc đời. Dù là mặt nạ Tuồng nhưng cũng chỉ để phản ánh cuộc sống dân gian.
Những chiếc mặt nạ “đông tây kim cổ” đã được “giao lưu” văn hóa trên tường gây ấn tượng với du khách.
Tễu cũng có đôi.
Những cửa hàng bán đồ tam khí mô phỏng đồ cổ ngày xưa.
Các du khách ngoại quốc, trong vài thập kỷ gần đây, cũng là một bộ phận không thể thiếu, tạo nên sự đa sắc, đa văn hóa cho mùa thu Hà Nội
Đi bên em, chiều bình yên thế.
Những con người bình dị trên phố.
Dấu vết thời gian phủ bóng tháp Hòa Phong.
Hà Nội là thế đó, bình yên, mộc mạc đến lạ thường.

 

Khu du lịch sinh thái Ao Vua

Khu du lịch sinh thái Ao Vua (xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì), cách Hà Nội tầm 60 km, có phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ, khí hậu trong lành cùng nhiều suối, thác đẹp, bên cạnh những công trình nhân tạo như khu vui chơi giải trí với bể bơi, cầu trượt, vườn chim thú hoang dã, vườn tượng… phục vụ nhu cầu tham quan, nghỉ ngơi, thư giãn của du khách.

 

 

Khu du lịch sinh thái Ao Vua trải dài dưới chân núi Tản Viên lung linh huyền thoại. Đến đây, du khách sẽ được sống trong không gian văn hóa Việt Nam bao la huyền tích. Câu chuyện về Hùng Duệ Vương, công chúa Ngọc Hoa, thần núi Sơn Tinh, thần nước Thủy Tinh với cuộc chiến long trời lở đất của 2 vị thần mãi mãi là những truyền thuyết đẹp nhất của người Việt.

 

Khu du lịch Ao Vua nổi tiếng với những thác nước cao hùng vĩ, uy nghiêm, xung quanh là những ngọn núi cao với những rừng cây tỏa bóng ngát. Nhìn cảnh tượng khiến con người cũng phải thán phục và ghen tị trước bàn tay tài hoa của tạo hóa vì đã quá ưu đãi cho thiên nhiên nơi đây. Khiến cho có người khách cảm hứng sinh tình mà thốt lên câu thơ.

Đến Ao Vua, du khách được leo núi, vượt thác, tắm nước vua xưa, vui đùa trong công viên nước, đu quay, nhà chơi đa năng, thăm động Sơn Tinh- Thủy Tinh, rong ruổi du thuyền trên mặt hồ tiên hay đùa vui với chim thú trong vườn. Sau khi thưởng thức các món ăn đặc sản núi rừng của vùng đất Tản Viên sơn thành, bạn có thể đến thăm đền Thượng, đền Trung, chùa Mía, đền Và, khu di tích Chủ tich Hồ Chí Minh....

 

Không chỉ mang trong mình sự hấp dẫn sẵn có của tự nhiên , mà Ao vua còn có sự thu hút của những khu vui chơi, giải trí hiện đại. Cùng với hệ thống khách sạn, nhà hàng cao cấp.

Để có một chuyến du lịch hấp dẫn tại khu thắng cảnh này, các bạn chỉ cần bỏ ra một số chi phí khá nhỏ khoảng hơn 100 nghìn đồng là bạn có thể vui chơi, thoải mái với các trò chơi hấp dẫn, cũng như tham quan, chinh phục thiên nhiên nơi đây.

 

Hội An một huyền thoại



Thành phố Hội An
Thành phố Hội An nằm ở vùng hạ lưu ngã 3 sông Thu Bồn thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng về phía nam khoảng 30km. Nhiệt độ trung bình năm 25ºC; độ ẩm không khí trung bình năm là 82%, lượng mưa trung bình năm là 2.066mm. Cư dân chủ yếu là người Việt (kinh) và người Hoa. Tháng 12 năm 1999, UNESCO đã công nhận khu phố cổ Hội An là di sản văn hoá thế giới.
 


                Phố cổ Hội An
Thành phố có 13 xã, phường (9 phường, 3 xã ở đất liền và 1 xã đảo). Cư dân ở ba xã ở đất liền chủ yếu là sản xuất nông - ngư nghiệp, một số xã có nghề thủ công như mộc, đồ đồng, gốm... Xã đảo Tân Hiệp với diện tích tự nhiên khoảng 15km2, gồm bảy hòn đảo, địa hình trên đảo phần lớn là núi với đảo Cù Lao Chàm lớn nhất và là nơi có đặc sản yến sào. Hội An còn có 7 km bờ biển, bãi tắm Cửa Đại là một trong những bãi tắm sạch đẹp của Hội An và Việt Nam.


Từ thế kỷ 16 đến 19, Hội An từng là trung tâm mậu dịch quốc tế trên hành trình thương mại Đông - Tây, một thương cảng phồn thịnh nhất của xứ Đàng Trong - Việt Nam trong triều đại các chúa Nguyễn bởi thương thuyền từ Nhật Bản, Trung Hoa, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan ... thường đến đây để trao đổi, mua bán hàng hoá. Trong lịch sử hình thành và phát triển, Hội An đã được thế giới biết đến dưới nhiều tên gọi khác nhau. Phổ biến nhất là: Faifo, Haisfo, Hoài phố, Ketchem, Cotam. Các di chỉ khảo cổ và các hiện vật, công trình kiến trúc còn lưu lại đã chứng minh Hội An là nơi hội tụ, giao thoa giữa nhiều nền văn hoá: Chăm, Việt, Trung Hoa, Nhật Bản ... trong đó chịu sự ảnh hưởng nhiều nhất của văn hoá Việt và Trung.

Đến nay, khu phố cổ Hội An vẫn bảo tồn gần như nguyên trạng một quần thể di tích kiến trúc cổ gồm nhiều công trình nhà ở, hội quán, đình chùa, miếu mạo, giếng cầu, nhà thờ tộc, bến cảng, chợ ...và những con đường hẹp chạy ngang dọc tạo thành các ô vuông kiểu bàn cờ. Cảnh quan phố phường Hội An bao quát một màu rêu phong cổ kính trông hư hư, thực thực như một bức tranh sống động. Sự tồn tại một đô thị như Hội An là trường hợp duy nhất ở Việt Nam và cũng hiếm thấy trên thế giới. Đây được xem như một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị.

Ngoài những giá trị văn hoá qua kiến trúc đa dạng, Hội An còn lưu giữ một nền tảng văn 
              Hội quán Phước Kiến
 hoá phi vật thể khá đồ sộ. Cuộc sống thường nhật của cư dân với những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian, lễ hội văn hoá đang được bảo tồn và phát huy cùng với cảnh quan thiên nhiên thơ mộng, các làng nghề truyền thống, các món ăn đặc sản ... làm cho Hội An ngày càng trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách thập phương.

Theo tài liệu thống kê, đến nay Hội An có 1.360 di tích, danh thắng. Riêng các di tích được phân thành 11 loại gồm: 1.068 nhà cổ, 19 chùa, 43 miếu thờ thần linh, 23 đình, 38 nhà thờ tộc, 5 hội quán, 11 giếng nước cổ, 1 cầu, 44 ngôi mộ cổ. Trong khu vực đô thị cổ có hơn 1.100 di tích.

 

Hội An một huyền thoại



Thành phố Hội An
Thành phố Hội An nằm ở vùng hạ lưu ngã 3 sông Thu Bồn thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng về phía nam khoảng 30km. Nhiệt độ trung bình năm 25ºC; độ ẩm không khí trung bình năm là 82%, lượng mưa trung bình năm là 2.066mm. Cư dân chủ yếu là người Việt (kinh) và người Hoa. Tháng 12 năm 1999, UNESCO đã công nhận khu phố cổ Hội An là di sản văn hoá thế giới.
 


                Phố cổ Hội An
Thành phố có 13 xã, phường (9 phường, 3 xã ở đất liền và 1 xã đảo). Cư dân ở ba xã ở đất liền chủ yếu là sản xuất nông - ngư nghiệp, một số xã có nghề thủ công như mộc, đồ đồng, gốm... Xã đảo Tân Hiệp với diện tích tự nhiên khoảng 15km2, gồm bảy hòn đảo, địa hình trên đảo phần lớn là núi với đảo Cù Lao Chàm lớn nhất và là nơi có đặc sản yến sào. Hội An còn có 7 km bờ biển, bãi tắm Cửa Đại là một trong những bãi tắm sạch đẹp của Hội An và Việt Nam.


Từ thế kỷ 16 đến 19, Hội An từng là trung tâm mậu dịch quốc tế trên hành trình thương mại Đông - Tây, một thương cảng phồn thịnh nhất của xứ Đàng Trong - Việt Nam trong triều đại các chúa Nguyễn bởi thương thuyền từ Nhật Bản, Trung Hoa, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan ... thường đến đây để trao đổi, mua bán hàng hoá. Trong lịch sử hình thành và phát triển, Hội An đã được thế giới biết đến dưới nhiều tên gọi khác nhau. Phổ biến nhất là: Faifo, Haisfo, Hoài phố, Ketchem, Cotam. Các di chỉ khảo cổ và các hiện vật, công trình kiến trúc còn lưu lại đã chứng minh Hội An là nơi hội tụ, giao thoa giữa nhiều nền văn hoá: Chăm, Việt, Trung Hoa, Nhật Bản ... trong đó chịu sự ảnh hưởng nhiều nhất của văn hoá Việt và Trung.

Đến nay, khu phố cổ Hội An vẫn bảo tồn gần như nguyên trạng một quần thể di tích kiến trúc cổ gồm nhiều công trình nhà ở, hội quán, đình chùa, miếu mạo, giếng cầu, nhà thờ tộc, bến cảng, chợ ...và những con đường hẹp chạy ngang dọc tạo thành các ô vuông kiểu bàn cờ. Cảnh quan phố phường Hội An bao quát một màu rêu phong cổ kính trông hư hư, thực thực như một bức tranh sống động. Sự tồn tại một đô thị như Hội An là trường hợp duy nhất ở Việt Nam và cũng hiếm thấy trên thế giới. Đây được xem như một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị.

Ngoài những giá trị văn hoá qua kiến trúc đa dạng, Hội An còn lưu giữ một nền tảng văn 
              Hội quán Phước Kiến
 hoá phi vật thể khá đồ sộ. Cuộc sống thường nhật của cư dân với những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian, lễ hội văn hoá đang được bảo tồn và phát huy cùng với cảnh quan thiên nhiên thơ mộng, các làng nghề truyền thống, các món ăn đặc sản ... làm cho Hội An ngày càng trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách thập phương.

Theo tài liệu thống kê, đến nay Hội An có 1.360 di tích, danh thắng. Riêng các di tích được phân thành 11 loại gồm: 1.068 nhà cổ, 19 chùa, 43 miếu thờ thần linh, 23 đình, 38 nhà thờ tộc, 5 hội quán, 11 giếng nước cổ, 1 cầu, 44 ngôi mộ cổ. Trong khu vực đô thị cổ có hơn 1.100 di tích.