Thứ Năm, 7 tháng 11, 2013

Vẻ đẹp hoang sơ của đảo Bình Ba

Bạn đã quá quen với Sài Gòn, Hà Nội nhộn nhịp đông đúc. Bạn cũng thường đến những điểm du lịch phổ biến, dịch vụ khá nhiều và chuyên nghiệp. Bạn có muốn trải nghiệm một chuyến du lịch khác biệt hơn không? Cuối tuần tới, hãy thử cùng bạn bè trốn cái nóng oi bức của Sài Gòn, cái chật chội của Hà Nội, đến với đảo Bình Ba (Cam Ranh, Khánh Hòa) để tận hưởng cái không khí mát mẻ của trời và biển. Bạn sẽ cảm nhận sự tinh khiết, nguyên sơ đến tận cùng.

Đảo Bình Ba thuộc thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa. Đây là một hòn đảo còn khá hoang sơ, chưa được cho phép khai thác du lịch, đa phần người dân làm du lịch tự phát. Người dân Bình Ba vốn rất thân thiện và mến khách. Và nơi đây rất thích hợp cho những chuyến du lịch biển đảo bình yên ngắn ngày, tránh xa cuộc sống xô bồ và phức tạp.


Nằm cách thành phố Nha Trang khoảng 60km về phía nam, vịnh Cam Ranh trải dài như một dải lụa xanh thẳm đẹp đến mê hồn, quanh năm nắng ấm chan hòa, bầu trời trong xanh tạo cho mặt vịnh một màu xanh rất dễ chịu.


Bình Ba còn khá mới đối với dân hay đi du lịch theo tour, nhưng đối với dân phượt thì đây là một địa điểm vô cùng hấp dẫn. Là một đảo nhỏ nằm trên vịnh Cam Ranh, Bình Ba che chắn phong ba, bão táp cho vùng vịnh, giang rộng vòng tay bảo vệ tàu thuyền về trú ngụ khi gặp bão ngoài khơi. Chính vì vậy mà người dân nơi đây gọi tên đảo là Bình Ba.


Từ cảng Ba Ngòi (càng Cam Ranh), bạn đi thuyền ra đảo khoảng 1 giờ đồng hồ. Ngồi trên tàu, bạn có thể thỏa thích ngắm cảnh trong vịnh. Thiên nhiên nơi đây đẹp gần như còn nguyên sơ: những bãi cát trắng vàng, trải dài mịn màng như chưa bao giờ có dấu chân người, đẹp nhất vẫn là những quần thể ghềnh đá granit do sự xâm thực của gió, của nước biển đã tạo nên những hình thù chồng chất kỳ lạ.


Nếu ví vùng vịnh Cam Ranh như hình chữ “U” thì đảo Bình Ba như một dấu chấm nằm chắn ở 2 đầu chữ “U” tạo thành 2 cửa biển (một cửa lớn và một cửa nhỏ). Biển nơi đây êm đềm quanh năm, mặt nước hiền hòa không gợn sóng. Bạn có thể thỏa thích, ngắm cảnh 2 bên tàu, chụp những tấm hình lưu niệm, ngắm nhà máy xi măng hay đàn hải âu chao lượn trên mặt biển…


Gần đến đảo Bình Ba, bạn sẽ thấy có sự thay đổi về màu xanh của nước, mặt nước lúc này êm đềm, phẳng lặng, gió gần như không còn thổi, cảm giác nôn nao hiện lên khi bạn nhìn thấy xa xa những căn nhà mái ngói, những chiếc bè nuôi tôm hùm, thú vị nhất là khi tàu chạy ngang qua những chiếc bè mấy chú chó trên bè sủa inh ỏi, một cảm giác háo hức, mong chờ dâng lên trong lòng bạn.


Tàu gần cập bến, bạn sẽ ngỡ ngàng trước nước biển nơi đây, nước xanh trong vắt, nếu may mắn bạn có thể bắt gặp một đàn cá đang bơi lội xung quanh tàu. Đây sẽ là một tấm hình kỷ niệm mà bạn không thể nào quên được.


Để xua tan cái mệt nhọc sau chặng đường dài, bạn có thể đến nhà người dân xin ở tạm, nghỉ ngơi thư giãn, sau đó hãy đừng quên khám phá đảo vào một buổi sáng tinh mơ nhé!


Bình Định - Đàn tế trời đất Tây Sơn

Là khu di tích lịch sử mang giá trị cao với người dân nơi đây và đất nước, đó cũng là nét đẹp văn hóa vùng miền nơi đây. Đàn tế trời đất hay còn gọi là Khu du lịch tâm linh Ấn Sơn thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, tỉnh Bình Định sẽ là điểm đến hấp dẫn với những khách hành hương.

Tháng 11/2011, công trình Đàn tế trời đã được khởi công xây dựng. Đàn tế Trời Đất, Đền Ấn, được bố trí theo trục trần đạo hướng Nam – Bắc, trên khu đất rộng 46 ha, nhân kỷ niệm 220 năm ngày mất Hoàng Đế Quang Trung (1792 – 2012), năm 2012 UBND tỉnh Bình Định đã làm lễ dâng hương và chính thức đưa vào hoạt động công trình Đàn tế trời đất tại núi Ấn Sơn. 

Trong năm 2012, nhân kỷ niệm 220 năm ngày mất Hoàng đế Quang Trung (1792-2012), UBND tỉnh Bình Định đã làm lễ dâng hương và chính thức đưa vào hoạt động công trình Đàn tế trời đất tại núi Ấn Sơn thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn.


Ấn Sơn nằm trong dãy núi Hoành Sơn cao 364 m nằm ngang theo hướng Bắc – Nam, ở phía Tây xã Bình Tường, huyện Tây Sơn. Theo Quách Tấn, trong “Nước non Bình Định” các thầy địa lý Việt Nam cũng như Trung Hoa đều công nhận cuộc đất Hoành Sơn là đại địa, vì có nào bút (Bút Sơn – Hòn Trưng), nào nghiêng (Hợi Sơn – Hòn Dũng), nào ấn (Ấn Sơn – Hòn Giải), nào kiếm (Kiếm Sơn – Hòn Hóc Lãnh), nào cổ (Cổ Sơn – Hòn Trống), nào chung (Chung Sơn – Hòn Chuông) ở hai bên tả hữu.

Đàn tế trời đất, được xây dựng cảnh quan phong thủy của vùng Hoành Sơn, nơi tương truyền ba anh em Nguyễn Nhạc đã làm chủ được long huyệt, để từ đó khởi phát cả văn tài lẫn võ hiệp.

Đúng là dãy Hoành Sơn ở đây trông kỳ bí thật, dù tính về độ cao thì chưa chắc đã hơn nhiều dãy núi khác ở Trường Sơn. Núi ở đây như tìm về đồng bằng, cứ quanh quất giữa những cánh đồng như muốn đánh bạn với dân làng trong xóm mạc, như muốn nói điều gì đó với con người.


Cũng là núi, mà tự nhiên thấy gần gũi, thân thiện, nằm trong dãy núi Ân Hoành Sơn cao 364m nằm ngang theo hướng Bắc – Nam, ở phía Tây xã Bình Tường, huyện tây Sơn, Theo Quách Tấn, trong “Nước non Bình Định”, các thầy địa lý Việt Nam cũng như Trung Hoa đều công nhận cuộc đất Hoành Sơn là đại địa, vì có nào bút  (Bút Sơn – Hòn Trưng), nào nghiêng (Hợi Sơn – Hòn Dũng), nào ấn (Ấn Sơn – Hòn Giải), nào kiếm (Kiếm Sơn – Hòn Hóc Lãnh), nào cổ (Cổ Sơn – Hòn Trống), nào chung (Chung Sơn – Hòn Chuông) ở hai bên tả hữu.
 
Đàn tế trời tọa lạc ở trên đỉnh cao nhất của Ấn Sơn, cấu trúc 3 tầng, tầng trên cùng hình tròn gọi là Viên Đàn, có đường kính 27m, tượng trưng cho Trời, được xây bao bằng đá ong, lan can đá có màu đỏ bao quanh, nền đất nện chặt, một lối lên từ hướng Nam có 5 bậc, chính giữa Viên Đàn đặt sập đá và nhang áng đá là áng thờ Trời – Đất.

Tầng thứ hai gọi là Phương Đàn, có hình vuông, chiều dài mỗi cạnh 54m, tượng trưng cho Đất, cũng được xây bao bằng đá ong, lan can đá màu vàng bao quanh, 4 lối lên theo 4 hướng Nam, Bắc, Đông, Tây, mỗi lối lên có 9 bậc, nơi đây khi tế lễ sẽ bố trí các áng thờ thần như: Thần mặt trời, mặt trăng, các thần biển, sông, núi, đầm… 

Tầng dưới cùng cũng hình vuông được xây bao bằng tường đá ong có 4 lối vào theo 4 hướng, hướng chính là hướng Nam với cổng tam quan, 2 tầng, lối đi chính có 2 tầng mái, bên trong tam quan là 1 bức bình phong bằng đá, 3 hướng còn lại là 3 nghi môn kiểu tứ trụ thẳng hàng, là nơi chuẩn bị và một số nghi thức diễn ra ở đây trước khi tế lễ.

Nằm bên phải Đàn tế là khu Đền Ấn gồm 3 hạng mục: Tiền tế có kiến trúc mặt bằng chữ Nhất, 5 gian, mái chái, có đầu đao. Nhà Tiền tế có bàn thờ chung các tướng lĩnh và quân sĩ thời Tây Sơn. Tiếp sau Tiền tế là Phương Đình – nơi tượng trưng cho sự thông thiên, giao hòa giữa Trời và Đất, giữa Âm và Dương. Ở đây sẽ đặt bản sao của Ấn lệnh nhà Tây Sơn.

Phía trong cùng là kiến trúc Hậu cung, mặt bằng chữ Nhất, 3 gian, mái chái là nơi đặt bàn thờ cùng bài vị của 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Phía trước cổng Tam quan ngoài cùng của trục chính là hồ nước hình bán nguyệt vừa tạo phong thủy vừa tốt cho hướng chính diện của Đàn tế vừa tạo điểm nhấn cho tổng thể quy hoạch Đàn thiêng. Ngoài hồ nước còn có một “nghi môn ngoại” ngăn cách giữa không gian tâm linh với bên ngoài.



Tương truyền mộ của Nguyễn Phi Phúc, thân sinh của Tây Sơn Tam Kiệt an táng ở Hoành Sơn. Sau khi chiếm được long huyệt ở Hoành Sơn thì 3 anh em Nguyễn Nhạc phát tướng, việc học hành võ cũng như văn tiến bộ lạ thường. Thầy học là cụ giáo Hiến, giỏi văn lẫn võ, rành khoa tướng số, nhìn thấy thần sắc ba anh em họ Nguyễn, biết vận trời đã đến, bèn đem câu sấm “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công” ra khuyên Nguyễn Nhạc về lo mưu đồ đại sự.

Vâng lời thầy, 3 anh em về Kiên Thành lo chiêu mộ hào kiệt. Cũng theo tương truyền, vùng non nước cẩm tú linh thiêng Ấn Sơn cũng là nơi trời đất đã ban kiếm lệnh và ấn triện có khắc bốn chữ “Sơn hà xã tắc” cho ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ.

Trước khi khởi binh dựng lên nghiệp vĩ đại đánh đổ hai tập đoàn phong kiến Trịnh Nguyễn, thống nhất sơn hà, quét sạch ngoại xâm, “dìu dắt dân vào đạo lớn, đem dân lên cõi dài xuân”, Tây Sơn tam kiệt đã lập đàn tế trời đất ở đây để nhận ấn kiếm và cầu trời đất phù hộ cho đại nghiệp thành công Đàn tế trời Tây Sơn, những đền thờ nghĩa quân Tây Sơn ở An Khê – Gia Lai.

Sau khi khánh thành Đàn tế trời đất trên ngọn Ấn Sơn, để hợp cùng Bảo tàng Hoàng đế Quang Trung thành một “cung hoàng đạo”, vùng đất địa linh nhân kiệt ở đây sẽ được “phủ sóng” bởi lòng yêu nước, lòng tự hào của hàng triệu con dân Việt hành hương về viếng.

Đàn tế Ấn Sơn được xây dựng theo kiểu thức Đàn thiêng tế trời, có nhiều tên gọi khác nhau: Đàn Nam Giao, Thái Giao, Giao Đàn, Giao Khâu, Viên Khâu, Thiên Đàn… Ở Việt Nam, dưới triều vua Lý Anh Tông (1138 – 1175), vào năm 1154 triều đình đã cho đắp Đàn Viên Khâu và đích thân nhà vua lên làm lễ tế Trời. Từ đó về sau, triều nào cũng lập Đàn Nam Giao, với quy mô và quy định khác nhau, có triều quy định mỗi năm Tế Giao một lần vào tháng 2 âm lịch, có triều quy định 3 năm tổ chức một lần. Cuộc lễ Tế Giao lần cuối cùng ở Việt Nam vào thời Nguyễn, diễn ra dưới triều vua Bảo Đại (3.1945). Tế Giao là một lễ hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, mà trên hết là tinh thần hòa ái với thiên nhiên, với ước nguyện mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, thiên hạ thái bình.

Đàn tế trời đất Tây Sơn được khánh thánh đúng dịp kỷ niệm 220 năm ngày mất của Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ tạo thêm một điểm nhấn hấp dẫn trên trục du lịch lịch sử tâm linh về phong trào Tây Sơn dọc theo Quốc lộ 19 gồm Bảo tàng Quang Trung, Đàn tế trời Tây Sơn, những đền thờ nghĩa quân Tây Sơn ở An Khê –Gia Lai.

Làm sao để lòng yêu nước thương dân, nghĩa khí, sự bất khuất. tài thao lược của Quang Trung Nguyễn Huệ như dòng nước quý từ lòng giếng cây Me ở Bảo tàng Tây Sơn tiếp tục được lưu chuyển mát lành trong châu thân mỗi người Việt giữa cuộc sống hàng ngày. Ông Lê Hữu Lộc – chủ tịch UBND tỉnh Bình Định tự hào trò chuyện với chúng tôi:

“Công trình khu du lịch tâm linh Ấn Sơn là tấm lòng của hậu nhân đối với tiền nhân, lưu danh muôn thuở có thêm công trình này, Bình Định có thêm 1 địa chỉ để nhân dân và cả nước, du khách gần xa đến thăm viếng, bày tỏ chiêm bái tinh thần phong trào Tây Sơn trường tồn…”.

Ngắm nhìn đất biển Bình Đại, Bến Tre

 Bình Đại là một trong ba huyện biển của Bến Tre, nằm trên cù lao An Hóa và ở vị trí bốn bên là sông, biển bao bọc. Bình Đại có nhiều lợi thế về giao thông thủy cả giao thông bộ. Về với đất biển Bình Đại du khách không chỉ được tận hưởng không khí trong lành, mát mẻ của đất xứ dừa mà còn được hòa mình vào các lễ hội truyền thống của Bến Tre.

Vì là huyện vùng biển, người dân Bình Đại sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt hải sản và nuôi trồng thủy sản. Gắn liền với nghề này ở Bình Đại có nghề đóng ghe nổi tiếng của cánh thợ vùng Thới Thuận. Hay một nghề không thể không kể đến và có truyền thống lâu đời, có những nét độc đáo riêng như: nghề đánh cá mòi, câu kiều, lưới sỉ, lưới cào. Một nghề có tính chất riêng biệt của vùng biển Bình Đại nữa là nghề đáy sông cầu, nghề này ở Bình Đại có rất sớm và phát triển mạnh, rồi lan sang cửa biển ở Ba Tri và Trà Vinh. Đáy sông cầu được cắm thành hàng ngang giữa dòng nước chảy xiết nhưng không có những hàng rào chắn ngược dòng như đáy rạo.

Bình Đại là một trong ba huyện biển của Bến Tre, nằm trên cù lao An Hoá và ở vị trí bốn bên là sông, biển bao bọc. Bình Đại có nhiều lợi thế về giao thông thủy cả giao thông bộ. Từ thành phố Bến Tre đi bằng ô tô đến trung tâm huyện Bình Đại khoảng 51 km.

Vì là huyện vùng biển, người dân Bình Đại sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt hải sản và nuôi trồng thủy sản. Gắn liền với nghề này ở Bình Đại có nghề đóng ghe nổi tiếng của cánh thợ vùng Thới Thuận.

Hay một nghề không thể không kể đến và có truyền thống lâu đời, có những nét độc đáo riêng như: nghề đánh cá mòi, câu kiều, lưới sỉ, lưới cào. Một nghề có tính chất riêng biệt của vùng biển Bình Đại nữa là nghề đáy sông cầu, nghề này ở Bình Đại có rất sớm và phát triển mạnh, rồi lan sang cửa biển ở Ba Tri và Trà Vinh. Đáy sông cầu được cắm thành hàng ngang giữa dòng nước chảy xiết nhưng không có những hàng rào chắn ngược dòng như đáy rạo.


Ngoài nghề nuôi trồng và đánh bắt hải sản, người dân Bình Đại còn nghề làm vườn, làm ruộng, làm muối, chế biến những sản phẩm của biển, nghề trồng giồng. Bí đỏ Giồng Giếng (Thạnh Phước), mãng cầu Thới Thuận là những đặc sản có tiếng trong vùng…. Nhưng có lẽ nổi tiếng nhất là đặc sản “dưa hấu Cửa Đại”, từng được bằng khen trong các hội chợ.

Về du lịch, Bình Đại chưa có nhiều điểm đến, nhưng trên đường đến biển Thừa Đức, du khách ghé thăm di tích lịch sử cấp tỉnh Đình Tân Hưng và đền thờ Huỳnh Tấn Phát, tọa lạc tại xã Châu Hưng.

Đình được xây dựng trên mảnh đất rộng 2.100m2 gồm 03 ngôi nhà ba gian, hai chái liền nhau theo kiểu “sắp đọi”, mái lợp ngói âm dương. Ngôi đình chính gồm: gian đầu là nhà võ ca, gian giữa là nơi chức sắc trong làng hội họp, gian thứ 3 thờ thần.

Tất cả vì kèo, xuyên, trính, bao lam, thành vọng, hoành phi, câu đối, long trụ, khánh thờ đều được làm bằng các loại gỗ quý và được chạm khắc hoa văn phong phú như chim, hoa lan, hoa cúc, trúc, lưỡng long tranh châu, kỳ lân,… đều được sơn son thếp vàng.

Vùng đất huyện Bình Đại còn có công trình cống đập Ba Lai tại xã Thạnh Trị và một phần của xã Bình Thới. Cống đập Ba Lai là một hạng mục trong hệ thống thuỷ lợi, có các công trình lớn đồng bộ, khép kín các công trình đê - cống ven sông Cửa Đại, sông Hàm Luông. 

Công trình với mục đích tưới tiêu, giữ ngọt, ngăn mặn cho khoảng 90.000ha đất nông nghiệp, hệ thống này sẽ phân rõ vùng mặn, vùng ngọt và sẽ thuận lợi bố trí sản xuất ở vùng mặn (nuôi thuỷ sản), vùng ngọt sẽ đưa sản xuất lúa từ 2 vụ lên 3 vụ, đồng thời tạo điều kiện phát triển kinh tế vườn. Cũng tại địa điểm này có thể tham quan trại nuôi cá sấu, heo rừng và mô hình nuôi cá lóc bông ven sông Ba Lai.

Lễ hội nghinh Ông là lễ hội phổ biến của các làng ven biển của Việt Nam, trong đó có Bình Đại - Bến Tre. Trong ngày hội tất cả tàu thuyền đánh cá đều về tập trung neo đậu để tế lễ, vui chơi và ăn uống.

Lễ hội Nghinh Ông lớn nhất hàng năm tổ chức ở lăng Ông xã Bình Thắng huyện Bình Đại được tổ chức vào ngày 16/6 âm lịch. Lễ gồm ba phần: túc yết, nghinh ông, tế tiền hiền và hậu hiền, lễ chánh tế và xây chầu đại bội.

Vào lễ, các thuyền đánh cá đều chăng đèn, kết hoa rực rỡ. Ở đầu mũi thuyền, chủ nhân bày mâm cúng gồm trái cây, xôi thịt, thường là cặp vịt luộc, chiếc đầu heo cùng với hương hoa Lễ hội nghinh ông ở xã Bình Thắng tuy ra đời muộn màng hơn so với các địa phương khác trong tỉnh, nhưng lễ hội không chỉ thể hiện đầy đủ tính vốn có của lễ hội dân gian, mà còn phản ánh sinh động cả nội dung và hình thức của nghề hạ bạc trong hệ thống tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Nhưng có lẽ đến Bình Đại, khám phá bãi biển phù sa Thừa Đức là thích thú nhất. Bởi bãi biển nơi đây còn hoang sơ, với bãi cát mịn trải dài ra biển, cặp theo bãi biển là những hàng dương xanh, tạo ra phong cảnh khá đẹp, cùng với không khí thoải mái, thoáng mát.

Dọc theo bãi biển là các dãy nhà lá được cất nối dài, người ta mắc những chiếc võng để du khách nằm nghỉ ngơi đong đưa, thư giãn, hít thở gió biển, lắng nghe tiếng sóng biển rì rào hòa vào cùng tiếng vi vu của những rặng phi lao, tạo nên một thanh âm đặc sắc, bay bổng, nhẹ nhàng, thoải mái vô cùng.

Tại bãi biển phù sa Thừa Đức, sau khi tắm biển phù sa, du khách có thể thỏa thích chọn lựa thưởng thức các món đặc sản biển như: Cá, mực, tôm, cua, nghêu, sò... và độc đáo nhất là món bánh xèo xứ biển. Chiếc bánh xèo ở đây được chiên lớn, giòn, mùi thơm béo ngậy.

Ngồi bên mâm bánh xèo phong phú các loại rau ăn kèm, với nước chấm tỏi ớt chua, ngọt có pha những sợi rối trắng, đỏ được chế biến từ củ cải trắng, đỏ hấp dẫn vô cùng. Hay mùi thơm tỏa ra từ những chiếc bánh xèo đang chiên, chưa ăn mà cảm thấy ngon hết sẩy. Những năm gần đây, bánh xèo tại bãi biển Thừa Đức gần như đã trở thành “thương hiệu” và hầu như ai đến nơi đây ít, nhiều cũng một lần thưởng thức món bánh xèo xứ biển.

Thưởng thức xong món bánh xèo hay các món đặc sản biển, du khách có thể tiếp tục ngã lưng trên những cánh võng được mắc trong các dãy nhà nối dài. Hay du khách tự mắc võng dưới hàng dương xanh mát, để tận hưởng không khí trong lành của biển phù sa trên đất xứ dừa.

Tuy là bãi biển phù sa, nhưng nơi dây vào các dịp lễ hàng ngàn du khách từ các nơi đổ về để vui chơi, tắm biển đông nghẹt. Bãi biển đã được xây dựng bờ kè bê tông, tương lai nơi đây sẽ tạo ra không gian sinh thái xứ biển lý tưởng, thích hợp nghỉ ngơi, an dưỡng, nhất là cho người cao tuổi. 

Đường đến Bình Đại hai bên đường du khách ngắm nhìn cảnh thiên nhiên, sẽ mãn nhãn với những cánh đồng lúa xanh mơn mởn hay chín vàng, xen lẫn với những hàng dừa xanh thẳng lối và những liếp, những mô dừa xanh đang vươn mình bên đồng ruộng lúa.

Du khách sẽ bắt gặp mô hình nuôi tôm công nghiệp tại các xã ven hai bên đường…. Ngoài các sản phẩm về biển thông thường như: cá, tôm, cua, mực, nghêu…; vùng này còn có rừng ngập mặn, có nhiều cây chà là mọc, nên cũng có lắm đuông chà là.

Đây là sản vật thiên nhiên rất độc đáo, người dân nơi đây đã khai thác, chế biến làm nhiều món nhâm nhi trong các quán. Hay ở đây, còn có đặc sản con rươi dùng để làm nước nắm rất đặc biệt.

Bình Đại chưa có nhiều điểm đến du lịch, nhưng trung tâm thị trấn Bình Đại lại có nhiều cơ sở lưu trú đầy đủ tiện nghi hơn so với các huyện khác của tỉnh Bến Tre.

Có thể nói cơ sở lưu trú ở đây không thua gì các khách sạn tại thành phố Bến Tre. Vì thế, du khách có thể chọn nghỉ qua đêm tại vùng đất biển yên ả này, thưởng thức đặc sản biển thỏa thích, cũng như mua sắm quà lưu niệm nhân chuyến hành trình khám phá đất biển trên ba dãy cù lao xứ dừa Bến Tre.

Di tích lịch sử cấp quốc gia tỉnh Hậu Giang - Tầm Vu

Ở hậu Giang có một khu di tích lịch sử đã được cấp Quốc gia công nhận và gìn giữ những giá trị nơi đây. Khu di tích lịch sử Tầm Vu tại xã Thạnh Xuân, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang, cách thành phố Cần Thơ 17 km về hướng Tây Nam theo quốc lộ 61

Đây là khu di tích lịch sử kết hợp với du lịch sinh thái nổi tiếng của tỉnh Hậu Giang. Di tích đã được Bộ Văn hoá - Thông tin của Việt Nam (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) ra Quyết định số 154VH/QĐ, ngày 25/01/1991 công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.


Tầm Vu là nơi diễn ra nhiều trận đánh quan trọng trong lịch sử cách mạng địa phương những năm đầu chống Pháp. Trận đánh thứ nhất ở Tầm Vu diễn ra vào ngày 20/01/1946 do ông Nguyễn Đăng chỉ huy quân cách mạng giết chết đại tá Dessert - một trong 5 sĩ quan cao cấp của Pháp trên chiến trường Đông Dương. Trận đánh thứ hai diễn ra vào ngày 12/11/1946 dưới sự chỉ huy của ông Ngô Hồng Giỏi, quân cách mạng đã phục kích và đánh bại một tốp quân Pháp. Trận đánh thứ ba diễn ra vào ngày 03/05/1947, do khu bộ trưởng Huỳnh Phan Hộ chỉ huy quân cách mạng tấn công vào một đoàn xe chở lính Pháp, tiêu diệt quân Pháp và cướp súng. Trận Tầm Vu IV diễn ra vào ngày 19/04/1948 dưới sự chỉ huy của chi bộ trưởng Trương Văn Giàu và tham mưu trưởng Võ Quang Anh, quân cách mạng cướp được khẩu đại bác 105 ly của Pháp đầu tiên trên chiến trường Nam Bộ. Sự kiện này còn được nhắc lại qua gai thoại Trâu kéo pháo, hình ảnh hào hùng của những người chiến sĩ cách mạng chân đất đã làm nên lịch sử oai hùng của dân tộc và được khắc họa qua ca khúc “Chiến thắng Tầm Vu” nhạc của Đức Nhẫn, lời của Quốc Hương.

Tầm Vu đã được tỉnh Hậu Giang đầu tư xây dựng thành khu di tích lịch sử kết hợp với du lịch sinh thái nhằm phục vụ du khách gần xa. Ở đây có tượng đài chiến thắng cao 8 m sừng sững nổi lên giữa những thảm lúa xanh mơn mởn, vườn cây ăn trái ngút ngàn. Khu du lịch xanh với những nét bản sắc văn hoá, truyền thống của địa phương, nhiều nhóm động vật quý hiếm và một hệ sinh thái cây ăn trái nhiệt đới phong phú. Đến đây bạn còn được tìm hiểu về chiến thắng lịch sử Tầm Vu và những phong tục tập quán của người dân miền Tây Nam Bộ.

Trên báo nước ngoài Tam Cốc đẹp mơ màng

 Những hình ảnh bình dị về một đồng quê với những vựa lúa vàng mơ màng cũng cuốn hút du khách đến đây. Hình ảnh những cánh đồng lúa chín vàng ở Tam Cốc, Ninh Bình đã khiến khu du lịch của Việt Nam trở nên đẹp mơ màng trên trang chuyên trang du lịch của Amusing Planet.

Nằm cách thành phố Ninh Bình khoảng 7km, khu du lịch Tam Cốc - Bích Động được xem là một địa chỉ tham quan hấp dẫn khách du lịch khi đến với Việt Nam. Khi đến đây, bạn sẽ được ngồi thuyền xuôi theo dòng sông Ngô Đồng và chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ vĩ của những ngọn núi đá vôi cùng sắc vàng óng ánh của những cánh đồng lúa chín.

Cùng ngắm nhìn vẻ đẹp mơ màng của Tam Cốc qua những hình ảnh được đăng tải trên chuyên trang du lịch của Amusing Planet:














Bắc Giang những điểm đến không thể bỏ qua

Bắc Giang là một tỉnh vùng núi của Việt Nam, với nhiều đồi núi và cảnh quan thiên nhiên đã càng ngày càng tạo được vị thế về du lịch của tỉnh. Du khách đến Bắc Giang sẽ được ngắm những cảnh quan thiên nhiên thơ mộng của các huyện.

Thành cổ Xương Giang (Thành phố Bắc Giang)


Thành cổ Xương Giang nằm ở xã Xương Giang, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

Năm 1407, giặc Minh cho đắp thành này. Tuy hiện nay thành đặt ở vùng bằng phẳng nhưng ngày xưa, nó là ở vị trí hiểm yếu với hệ thống sông con, đầm lầy, rộc trũng bao quanh. Do địa thế hiểm yếu, nên năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn phải vây đánh 9 tháng mới hạ được thành. Để kỷ niệm chiến thắng lịch sử này, hàng năm tỉnh Bắc Giang tổ chức lễ hội kéo dài trong 2 ngày mùng 6 và mùng 7 tháng giêng.

Do sự tác động của lịch sử, thời gian và con người, ngôi thành hiện không còn nguyên vẹn mà chỉ còn những dấu tích. Từ các dấu tích ấy, có thể nhận thấy thành hình chữ nhật, rộng 27ha, có 4 cửa và được bao quanh bởi hào nước rộng.

Khi đến thành, khám phá từng ngóc ngách, chúng ta sẽ nhận ra những dấu ấn riêng biệt của ngôi thành như tại góc thành Tây Bắc vẫn còn cả tấm bia đá xanh nguyên vẹn, trên trán bia đề các chữ Hán "Xương Giang cổ thành bi ký" (bia ghi về thành cổ Xương Giang)...

Rừng nguyên sinh Khe Rỗ (Huyện Sơn Động)


Khung cảnh thiên nhiên đẹp và ấn tượng với du khách

Cách Hà Nội 120 km về phía đông bắc, rừng nguyên sinh Khe Rỗ thuộc xã An Lạc, huyện Sơn Động là khu rừng nguyên sinh tiêu biểu cho vùng Đông Bắc Việt Nam.

Rừng Khe Rỗ có hệ thống động thực vật phong phú và là khu rừng cấm nguyên sinh còn giữ được vẻ hoang sơ thích hợp với những du khách thích khám phá hay nghiên cứu. Đặc biệt, địa danh này sở hữu hai con suối lớn và rất đẹp. Một là suối nước Vàng quanh năm như mật ong, những viên đá nổi lên đủ màu sắc, kích cỡ; một là Khe Đin chảy dài với những đoạn thác cao đến 3, 4 tầng mỗi tầng khoảng 30-40m.

Có hai cách để khám phá Khe Rỗ. Một là xin nghỉ đêm ở trạm kiểm lâm, rồi vào bản, mua gà, rượu, rau, ra suối vừa câu cá, vừa tận hưởng thiên nhiên trong lành, vừa ngắm những tán rừng rậm rập, ghềnh đá vừa khề khà tâm sự. Trekking với những đoạn băng suối, lội đèo, dốc hay nghe mùi ngai ngái của cỏ lẫn trong không khí, tận hưởng bữa cơm nấu vội trong rừng, cái lạnh của núi, sương sớm là phương án thứ hai dành cho các bạn trẻ thích mạo hiểm.

Làng Thổ Hà và đình Thổ Hà
 (Huyện Việt Yên)


Làng Thổ Hà ngày ấy và bây giờ

Từ Hà Nội theo quốc lộ 1 về hướng Bắc 31 km tới thành phố Bắc Ninh, rẽ trái đi 3 km tới phố Đặng, ngược theo đê sông Cầu 1 km thì tới bến đò Thổ Hà, sang đò là tới làng.

Thổ Hà là tên gọi một làng nghề có ba mặt là sông thuộc xã Vân Hà. Đây là một ngôi làng cổ thuần Việt với cây đa, bến nước, sân đình và những nếp nhà cổ nằm sâu trong các ngõ hẻm. Điểm khác biệt duy nhất so với các làng quê đặc trưng Bắc Bộ là người dân ở đây không sống bằng nghề nông mà sống bằng nghề thủ công và buôn bán nhỏ. Trước 1960 làng nổi tiếng về nghề làm gốm, từ 1990 lại đây nổi tiếng về nghề làm bánh đa nem và mỳ gạo.



Đình Thổ Hà trong bức tranh xưa

Nếu đến đây vài chục năm trước, du khách sẽ thấy rõ dấu ấn của nghề gốm vang bóng một thời thông qua những bức tường ngõ cổ, bức tường nhà xây toàn bằng những mảnh gốm vỡ hay tiểu sành phế phẩm mà không dùng chút vôi vữa nào, chỉ dùng bùn của sông Cầu để kết dính. Hiện nay các bức tường này đã bị “xi măng hóa”.

Đình Thổ Hà là một ngôi đình nổi tiếng của xứ Kinh Bắc. Đình thờ Thân Cảnh Phúc, một vị tướng nhà Lý, có công lớn trong kháng chiến chống quân Tống, dân tộc Tày, tù trưởng châu Quang Lang (Châu Ôn - Lạng Sơn), được vua Lý gả công chúa và phong chức tri châu.

Đình Thổ Hà là một công trình kiến trúc quy mô trên một khu đất rộng 3.000 m². Đình xây dựng năm 1685 thời vua Lê Chính Hòa năm thứ 7. Đến năm 1807 (Gia Long năm thứ 5) xây dựng tiền tế và hai nhà tả vu, hữu vu. Đình được dựng theo kiểu chữ công với nhiều chi tiết chạm trổ tinh vi, nhiều cảnh trí sinh động. Đặc biệt có khá nhiều hình thiếu nữ mặc váy dài, yếm, tóc búi hoặc chít khăn với nét mặt rạng rỡ. Nghệ thuật điêu khắc độc đáo từng được chính quyền Pháp xếp hạng trong Viện bảo tàng Bác Cổ Đông Dương.

Chương trình tham quan của khách khi đến đây là ngắm cảnh trên bến dưới thuyền của dòng sông Cầu, thăm đình làng, chùa, cổng làng, văn chỉ, xem các cây đa cổ thụ, thăm một số nhà cổ trong làng, xem những ngõ xóm hun hút đẹp với vẻ cổ kính, thăm lò sản xuất gốm, thăm các gia đình sản xuất bánh đa nem và mỳ gạo bằng máy và thủ công, thăm các gia đình nấu rượu gạo. Khi về du khách nên mua bánh đa nem, vài cân mỳ gạo, vài lít rượu gạo nếp để làm quà. Nếu du khách thích cảm giác mạnh hãy đến thăm Thổ Hà khi nước sông Cầu ở mức báo động số 3.

Khi du khách đến thăm Thổ Hà có thể đồng thời đến thăm hai địa điểm du lịch nổi tiếng nữa của đất Kinh Bắc, đó là chùa Bổ Đà và đền Bà Chúa Kho. Các địa điểm này chỉ cách nhau từ 3 đến 5 km.

Chùa Đức La - Vĩnh Nghiêm (Huyện Yên Dũng)

Chùa Đức La hay còn có tên chùa Vĩnh Nghiêm, là một trung tâm Phật giáo từ thời Trần thuộc thiền phái Trúc Lâm. Chùa nằm trên một quả đồi thấp, sau lưng là dãy núi Cô Tiên, thuộc xã Trí Yên huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.



Một nét chùa Vĩnh Nghiêm

Tương truyền chùa Vĩnh Nghiêm có từ đầu thời Lý Thái Tổ (1010-1028), tên chữ là Vĩnh Nghiêm Tự. Thời vua Trần Thánh Tông (1258-1278) do có nhiều vị cao tăng tu hành nên chùa được tu tạo nguy nga, tráng lệ. Khi vua Trần Nhân Tông (1258-1308), từ bỏ ngôi vua thành người tu hành đến chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Ngoạ Vân (Yên Tử) thụ giới, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà, sáng lập lên phái Thiền tông của Phật giáo Việt Nam. Hương Vân cùng hai đệ tử Pháp Loa, Huyền Quang sáng lập, hoàn chỉnh phái Thiền tông Việt Nam gọi là Tam Tổ.

Chùa Vĩnh Nghiêm có quy mô lớn, tọa lạc trên mảnh đất khoảng 1 ha, bao quanh khuôn viên là luỹ tre dày đặc. Chùa được kiến trúc trên một trục, hướng đông nam gồm 4 khối: toà Thiên đường, toà Thượng điện, nhà Tổ đệ nhất, gác chuông, nhà tổ đệ nhị và một số công trình khác. Mở đầu là cổng tam quan xây gạch, sau đó đi vào hơn 100 m là bái đường (chùa Hộ).

Khu di tích Suối Mỡ và đền Suối Mỡ (Huyện Lục Nam)


Suối Mỡ nước chảy trong mát trên ngọn núi

Khu di tích suối Mỡ thuộc xã Nghĩa Phương, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

Khu di tích đón du khách với cái thoáng đãng của núi rừng, vẻ thanh bình của con đường uốn lượn men theo dòng suối, những mái nhà ẩn hiện trong tán cây, núi non hùng vĩ. Nếu không thích thong dong trên con đường này, bạn có thể khám phá lối đi khác được tạo ra bởi nhiều vách đá. Vào mùa mưa, những vách đá này thường rất trơn nên chống chỉ định cho du khách.

Dù chọn hành trình nào, trên đường đi, du khách sẽ có dịp nghỉ chân tại những ngôi nhà nhỏ, vừa giải khát với ngụm nước vối, thưởng thức những đặc sản địa phương như mít, vải, đu đủ... vừa ngắm nhìn mọi thứ từ trên cao.

Ngoài việc thưởng ngoạn phong cảnh, đến suối Mỡ du khách còn như lạc vào cõi bồng lai tiên cảnh với những ngôi đền, chùa nằm tĩnh tại trên những mỏm núi. Nổi bật nhất là đền Suối Mỡ, bao gồm đền Hạ, Trung, Thượng, nằm dọc theo dòng suối Mỡ chung Thượng Ngàn Thánh Mẫu (công chúa Quế Mỵ Nương đời vua Hùng thứ16). Tương truyền bà là người đã có công mở thác Vực Mỡ đưa nước về cho dân khai hoang trồng trọt, lập làng xóm.

Tại mỗi đến phong cảnh lại có sự thay đổi khác nhau mang đến nhiều trải nghiệm thú vị, đặc biệt nhất là 5 ngọn thác luôn đổ nước trắng xóa. Theo truyền thuyết, đó chính là 5 ngón tay của công chúa Quế Mỵ Nương.

Khu du lịch Khuôn Thần (Huyện Lục Ngạn)


Vẻ đẹp hồ Khuôn Thần

Từ Bắc Giang đi ngược lên vùng Đông Bắc 40km (phố Chũ) rồi rẽ trái 10km là tới khu du lịch Khuôn Thần thuộc địa phận huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.

Khu du lịch có 2 điểm nhấn là hồ và rừng Khuôn Thần. Hồ Khuôn Thần rộng 240ha, lòng hồ có 5 đảo nhỏ được trồng thông xanh có tuổi từ 15-20 năm. Hồ thích hợp cho việc dạo chơi trên hồ, câu cá…


Mùa vải  chín nặng cành

Rừng Khuôn Thần rộng khoảng 700ha, trong đó rừng tự nhiên là 300ha, rừng thông 400ha. Xung quanh khu du lịch Khuôn Thần là vườn cây đặc sản: vải Thái Lan, vải thiều, hồng, na… Du khách đến đây có thể cắm trại, thưởng thức mật ong, rượu tắc kè, hạt dẻ… hay tham dự các buổi sinh hoạt văn hóa với dân địa phương.