Thứ Hai, 4 tháng 11, 2013

Sapa đến thăm bản Tả Phìn thơ mộng

 Từ thị trấn Sa Pa đi về phía Tây Bắc khoảng chừng 12 km, du khách sẽ bị Tả Phìn cuốn hút bởi phong cảnh thiên nhiên còn nguyên sơ nơi đây. Hang Tả Phìn nổi tiếng, những thửa ruộng bậc thang, những dòng suối ôm lấy xóm làng… Đây là nơi sinh sống đồng bào dân tộc Dao đỏ, H''Mông, ở đây khách du lich sẽ hiểu thêm về những phong tục, tập quán, nếp sống đời thường của cộng đồng dân tộc nơi đây.

 Ngôi nhà của dân bản, gian giữa là nơi thờ cúng, khách không được phép ngồi. Vào thăm nhà phải theo sự chỉ dẫn của gia chủ. Phong tục người Mông, ghế đầu bàn dành cho cha mẹ, dù cho cha mẹ đã đi gặp tiên tổ, khách không được ngồi vào chiếc ghế thiêng liêng đó.




Trang phục mặc vào thăm bản không mặc loại lanh trắng chưa nhuộm, đó là màu sắc của tang lễ và khi gia chủ mời uống nước, uống rượu, nếu khước từ thì khách nên có lời nói khéo léo để chủ nhà hiểu, thông cảm, chớ úp bát xuống bàn, chỉ thầy cúng mới được phép làm như vậy để đuổi tà ma. 

 Nhà người Mông xây dựng có cây cột to chôn sâu xuống đất, đụng cao đến nóc nhà, các cột khác nhỏ hơn. Cột đều kê trên mặt đất, cột cao nhất gọi là cột cái, nơi con ma trú ngụ, du khách không treo quần áo, ngồi dựa lưng vào cây cột “linh hồn” đó. Khách ngồi uống rượu cần, giao lưu, chuyện trò cùng gia chủ không được vừa nói, vừa chỉ trỏ ngón tay ra phía trước. Người Mông cho rằng hành vi đó là bày tỏ thái độ không bằng lòng hoặc coi thường người tiếp chuyện. Tối kỵ là không huýt sáo khi dạo chơi ngắm cảnh bản, người dân bản cho rằng âm thanh tiếng huýt sáo là gọi ma quỷ về bản. Đó là một số điều mà mọi du khách đến thăm các làng bản trên Sapa cần lưu ý để có một chuyến du lịch tuyệt vời nhất.  Du khách đến với nơi đây đừng quên tắm nước suối được pha nhiều vị lá cây của người Dao đỏ sẽ làm cho nước da săn chắc, khỏe khoắn.




Gần bản Tả Phìn có hang động Tả Phìn, cửa hang cao khoảng 5m rông 3m có một lối đi xuyên xuống đất. Vào trong động, du khách sẽ nhìn thấy có tảng đá giống như thiếu phụ đang bồng con, những tảng đá giống như các nàng tiên, chỗ thì như những mâm xôi khổng lồ… Tại chỗ rộng nhất trong hang, các nhũ đá rủ xuống như dải đăng ten uốn lượn, nhấp nhô, long lanh màu ngọc bích. Vào sâu ta gặp một tảng đá lớn nằm hơi nghiêng, trên nền đá in hình những vết chân gà, ngay chóp đá bên phải còn hằn lên những vệt lõm hệt như móng chân ngựa. Một vách đá đối diện, những dòng chữ Pháp được khắc bằng vật cứng, cho đến ngày nay mặc dù bụi thời gian phủ lên ta vẫn còn đọc được. Hang động Tả Phìn có rất nhiều bí ẩn với chúng ta, cần được bảo vệ và giữ gìn. 

Trên đường quốc lộ 4D về thành phố Lào Cai, ra khỏi thị trấn Sa Pa chừng 4 cây số có một ngã ba rẽ vào con đường nhựa nhỏ, đi một đoạn sẽ gặp trạm thu phí. Mỗi người một vé 20.000 đồng. Tiếp tục chạy vào thêm khoảng 18 cây số nữa thì đến bản Tả Phìn.

Nhiều đoạn, xe chạy men sườn đồi, hai bên là những thửa ruộng bậc thang đang xanh màu lá mạ, bờ ruộng uốn lượn ôm sát lưng đồi tạo nên những đường cong mềm mại, lả lướt như những gợn sóng nhấp nhô trong thung lũng. Xa tít chân trời, trên sườn núi đá là những khoảnh xanh um những nương ngô (bắp). Cảnh sắc thơ mộng ấy giúp chúng tôi quên cảm giác sợ hãi của “con đường đau khổ” dài tít tắp này!

Người bán vé ở trạm thu phí cho biết, tiền vé được sẽ dùng tu bổ con đường vào bản Tả Phìn, phục vụ khách du lịch. Chẳng biết mấy năm nay người ta đã thu được bao nhiêu tiền mà đến nay, con đường chỉ được trải nhựa một đoạn từ ngã ba nối quốc lộ 4D vào một đoạn sau khi qua trạm, còn lại là những đoạn trơ đá xanh, thậm chí có nhiều nơi mặt đường có những hố khá sâu đọng đầy nước mưa.





Những người Dao Đỏ 

Còn cách trung tâm bản Tà Phìn chừng 500 thước, đã thấy một nhóm khoảng 50 phụ nữ trùm đầu khăn đỏ che kín mái tóc với một phần trán và chân mày cạo sạch, áo quần màu xanh đen có nhiều hoa văn đỏ, trắng ở cổ và tà áo. Có cả thắt lưng, xà cạp và giày dép. Dao Đỏ là dân tộc có số dân đứng thứ hai sau người H’Mông ở Sa Pa. Dịp tết cổ truyền của người Kinh cũng là dịp người Dao Đỏ ăn mừng “Tết nhảy” của họ, một ngày hội rất sống động.

Xe vừa dừng lại, đã thấy những phụ nữ Dao Đỏ nầy chỉ trỏ vào những người ngồi trong xe. Thoạt trông, cứ tưởng như lần đầu tiên họ thấy người lạ vào bản. Nhưng hóa ra đó là họ cánh họ “xí phần”, chọn khách để đeo bám theo chào bán hàng thổ cẩm. Tựa như trong Nam, khi xe khách vào bến, các bác tài xe ôm thường bu quanh cửa xe và hô lên “ông tóc bạc”, “anh áo xanh”, “túi xách đen”… để mời khách đi xe.

Hàng hóa của những phụ nữ Dao chào bán là những chiếc ba lô, áo khoác du lịch, khăn, túi xách tay, ví đựng tiền… và có cả những món “thời thượng” như túi đựng máy ảnh compact và những chiếc ví đựng điện thoại di động rất tiện dụng. Sản phẩm có nhiều giá, tùy theo kích thước, hoa văn cầu kỳ hay đơn giản... Giá bèo nhất 10.000 đồng/sản phẩm, cao nhất đến 1 triệu đồng, như đôi bông tai bằng bạc, tinh xảo trong từng nét chạm khắc.

Chúng tôi vào Nhị Xà quán, nằm giữa bản Tả Phìn. Chủ quán là một anh chàng người Kinh, đẹp trai, chưa vợ, miệng dẻo quẹo, xăng xái dọn thức ăn lên bàn. Mọi thứ được chuẩn bị sẵn do đã đặt trước qua điện thoại, gồm một dĩa thịt lợn cắp nách kho, một dĩa thịt gà bản xào sả, một tô canh thịt lợn nấu măng và sấu, cùng một thố cơm. Anh ta hào phóng tặng chúng tôi một dĩa lòng lợn và chai rượu san lùng đặc sản vùng cao phía Bắc. Thức ăn chẳng hợp khẩu vị, tệ nhất là dĩa lòng lợn, tất cả dù được hâm nhưng chỉ âm ấm. Một suất (người) ăn hết 80.000 đồng. Ăn xong, vài người lên gác nằm lấy sức.





Rời quán cơm, mỗi người chúng tôi lại được một nhóm người Dao Đỏ “hộ tống”. Họ nói tiếng Việt khá sõi, lại khá lưu loát thứ tiếng Anh “bồi” khi gặp khách nước ngoài. Họ đeo bám không rời để bán thổ cẩm đang cầm trên tay hoặc đựng trong tay nải. Kim chỉ là một nghề có thương hiệu của người Dao Đỏ, thu hút rất nhiều khách du lịch. Đặc biệt ngoài các phụ nữ lớn tuổi còn có nhiều thiếu nữ rất trẻ (chỉ chừng 14 - 15 tuổi) địu sau lưng đứa nhỏ mặt mày đen nhẻm. Hỏi mới biết là người Dao Đỏ có tục tảo hôn nên các cô gái vừa dậy thì ở tuổi 13 đã có chồng.

Động Ti Ổ Cẩm

Chúng tôi theo một con đường đất trơ trụi, không một bóng cây nhưng cảnh trí khá đẹp mắt, hai bên đường là những thửa ruộng xanh ngăn ngắt chia làm nhiều ô nhỏ. Đi chừng 1 cây số thì tới một chân núi cao, nơi có một hang động người địa phương gọi là Ti Ổ Cẩm. Trước cửa động, trên cao, có khắc 6 chữ : “Đại Bình Tả Thanh Long Động”. Với 5.000 đồng vào động sẽ có người cầm đèn đưa khách tham quan.

Ti Ổ Cẩm là một hang động rộng lớn, có thể chứa tới một trung đoàn lính. Vào hang, trong ánh sáng đèn, khách như lạc vào một cõi tiên, mê đắm chiêm ngưỡng những thạch nhũ có nhiều hình thù kỳ quái. Có chiếc như một vị tiên đang múa điệu Nghê Thường. Có nơi nhiều thạch nhũ tạo thành quần thể nhiều vị tiên đang đàm đạo nơi chốn bồng lai. Có những chiếc tụ lại thành một rừng cây, lại là rừng cây lấp lánh những sắc màu kỳ ảo...

Dù là một điểm du lịch còn vẻ hoang sơ, nhưng Tả Phìn cũng thu hút nhiều du khách đến tham quan. Khách từ miền xuôi lên. Khách từ phương Tây đến. Ai cũng hăm hở, thích thú ngắm nhìn cảnh trí thiên nhiên với người Dao Đỏ hiền hòa, chịu thương chịu khó.

Dưới ánh nắng mặt trời chói chang, mấy cụ bà mắt mũi kèm nhèm ngồi bên hiên nhà, cần mẫn, chăm chút từng đường kim mũi chỉ cho chiếc thổ cẩm trên tay mỗi lúc một đẹp xinh. Thoáng thấy khách lạ, các bà cụ nầy nhoẻn nụ cười bày ra mấy chiếc răng bịt đồng vàng chóe. Là những thiếu nữ lội bộ hàng chục cây số đến đây, đeo bám khách mong bán được sản phẩm nào đó để có thêm thu nhập cho gia đình. Vì, anh chồng ở nhà làm ruộng, tới mùa thu hoạch chẳng bao nhiêu thóc.

Dịch vụ xông hơi, tắm lá thuốc

Đến bản Tả Phìn, phần lớn du khách háo hức mua một vài món hàng dệt thổ cẩm của dịa phương. Nhưng có một dịch vụ hấp dẫn, không nên bỏ qua là đi tắm lá thuốc - một nét độc đáo trong sinh hoạt của người Dao Đỏ nơi đây.

Vào bản Tả Phìn, thấy ở đâu có sân phơi đầy các loại cây, lá thuốc, khách cứ tự nhiên bước vào nếu muốn xông hơi, tắm lá thuốc. Từ xưa, người Dao thường dùng những vị thuốc lá từ trên rừng về nấu nước tắm vào ngày cuối năm để đón năm mới. Nhận thấy việc tắm lá thuốc có tác dụng tốt cho sức khỏe, người dân Tả Phìn đã biến nó thành sản phẩm độc đáo, phục vụ khách du lịch.

Để tắm lá thuốc theo truyền thống của người Dao Đỏ, mỗi thùng nước tắm thường dùng đến hơn 10 loại lá thuốc, thậm chí có khi dùng tới 120 loại khác nhau. Cũng như các tiệm spa, tắm hơi ở thành thị, các nhà tắm lá thuốc nơi đây có tủ đựng quần áo và tài sản cá nhân cho khách. Trong căn phòng nhỏ kín đáo, hơi nước nóng từ bồn gỗ pơ-mu tỏa ra mù mịt, xông làn hương thảo dược quyện mùi thơm từ gỗ bồn tắm làm khỏe người, thần kinh thư giãn. Trong phòng có thùng nhựa đựng nước lạnh để khách pha vào nước lá thuốc có màu huyết dụ, sóng sánh như rượu vang Bordeaux.

Khi thấy nước nóng vừa với cơ thể mình thì thả người vào. Ngâm mình trong bồn tắm, hít thở làn hơi nước nóng ấm ngào ngạt hương thơm, càng lúc bạn càng nghe cơ thể mình sảng khoái, nhẹ nhàng. Chỉ nên ngâm mình chừng 15 - 20 phút thì bước ra khỏi bồn. Bấy giờ bạn sẽ có cảm giác cơ thể mình sạch sẽ tinh tươm như được ai đó kỳ cọ, lại thấy da dẻ hồng hào, tươi nhuận, mặt mày ửng hồng, nếu là phụ nữ trung niên sẽ cảm thấy mình như thiếu nữ hây hẩy xuân thì... Nếu muốn, với 200.000 đồng, khách sẽ được hưởng một suất massage toàn thân “đáng đồng tiền bát gạo”.

Phòng tắm lá thuốc có hai loại: đơn và đôi dành cho những cặp tình nhân hoặc vợ chồng tắm chung. Tắm đơn một suất 70.000 đồng. Tại Hợp tác xã Dao Đỏ Sa Pa tắm lá thuốc truyền thống, ngâm chân gia truyền ở đội 4 xã Tả Phìn người ta còn bán các sản phẩm thuốc tắm cho phụ nữ sau khi sinh. Họ còn nấu nước lá thuốc cô đặc cho vào chai nhựa để khách mua đem về nhà pha tắm. Nước ngâm chân 100.000 đồng/chai 350ml, nước tắm cho phụ nữ 80.000 đồng/chai 350ml. Theo hướng dẫn dán quanh thân chai, ngâm chân thì đổ 5ml vào 2-3 lít nước ấm, ngâm chân trong khoảng 15-20 phút; tắm thì rót nửa chai pha 20-30 lít nước ấm, cũng ngâm mình trong khoảng thời gian nêu trên. Nếu ngâm quá lâu sẽ có cảm giác say như say sóng, say thuốc lào!

Theo người Dao Đỏ ở Tả Phìn cho hay, tắm lá thuốc hoặc ngâm chân lá thuốc dài lâu sẽ thấy dược dụng của các loại lá thuốc, chữa trị được các bệnh: phong thấp, đau nhức xương khớp, mỏi cơ, thần kinh tọa, cảm hàn, cảm cúm, dạ dày, tổ đỉa, các bệnh ngoài da, ho, vàng da, đau lưng, đau gan. Đặc biệt, phụ nữ tắm nước lá thuốc da dẻ mịn màng, nhất là sản phụ sau khi sanh máu huyết lưu thông. Tắm lá thuốc, các cụ già phòng chống được các bệnh dai dẳng khó chịu của một con người bị thời gian “hành hạ”...

Côn Đảo điểm đến lý thú cho mùa hè

 Côn Đảo là một quần đảo ở ngoài khơi bờ biển Nam Bộ (Việt Nam) và cũng là huyện trực thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Côn Đảo hay Côn Sơn cũng hay dùng cho tên của hòn đảo lớn nhất trong quần đảo này. Lịch sử Việt Nam trước thế kỷ 20 thường gọi đảo Côn Sơn là đảo Côn Lôn hoặc Côn Nôn. Tên gọi cũ trong các văn bản tiếng Anh và tiếng Pháp là Poulo Condor.

Côn Đảo là tên một quần đảo ngoài khơi thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, cách Vũng Tàu 97 hải lý và cách sông Hậu 45 hải lý. Côn Đảo hay Côn Sơn cũng hay dùng cho tên của hòn đảo lớn nhất trong quần đảo này. Sử Việt trước thế kỷ 20 thường gọi đảo Côn Sơn là đảo Côn Lôn hoặc Côn Nôn.



Tên gọi cũ trong các văn bản tiếng Anh và tiếng Pháp là Poulo Condor. Năm 1977, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quyết định tên gọi chính thức là Côn Đảo. Côn Đảo cũng là đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Côn Đảo có cùng một kinh độ với Thành phố Hồ Chí Minh (106°36′) và cùng một vĩ độ với tỉnh Cà Mau (8°36′).

Quần đảo Côn Đảo gồm 16 hòn đảo với tổng diện tích 76 km².

    * Côn Lôn hay Côn Sơn, Phú Hải, 51,52km²
    * Hòn Côn Lôn Nhỏ, hay Hòn Bà, Phú Sơn, 5,45km²
    * Hòn Bảy Cạnh, hay Hòn Bãi Cạnh, Phú Hòa, 5,5km²
    * Hòn Cau, hay Phú Lệ 1,8km²
    * Hòn Bông Lan, hay Bông Lang, Bông Lau, Phú Phong, 0,2km²
    * Hòn Vung, hay Phú Vinh 0,15km²
    * Hòn Ngọc, hay hòn Trọc, hòn Trai, Phú Nghĩa, 4,4km²
    * Hòn Trứng, hay hòn Đá Bạc, hòn Đá Trắng, Phú Thọ, 0,1km²
    * Hòn Tài Lớn, hay Phú Bình 0,38km²
    * Hòn Tài Nhỏ, hay Hòn Thỏ, Phú An, 0,1 km²
    * Hòn Trác Lớn, hay Phú Hưng 0,25km²
    * Hòn Trác Nhỏ, hay Phú Thịnh 0,1km²
    * Hòn Tre Lớn, hay Phú Hòa 0,75km²
    * Hòn Tre Nhỏ, hay Phú Hội, 0,25km²
    * Hòn Anh, hay Hòn Trứng Lớn
    * Hòn Em, hay Hòn Trứng Nhỏ

Tên gọi

Tên Côn Đảo có nguồn gốc Mã Lai từ chữ "Pulau Kundur" nghĩa là "Hòn Bí". Người Âu Châu phiên âm là "Poulo Condor". Sử Việt thì gọi là "Đảo Côn Lôn" có thể cũng từ "Kundur" mà ra.




Riêng tên tiếng Miên của đảo là "Koh Tralach".

Lịch sử

Côn Đảo nằm ở vị trí thuận lợi trên đường hàng hải nối liền Âu-Á, vì vậy Côn Đảo được người phương Tây biết đến rất sớm.

Năm 1294 đoàn thuyền của nhà thám hiểm người Ý Marco Polo, gồm 14 chiếc trên đường từ Trung Hoa về nước bị một cơn bão nhấn chìm mất 8 chiếc, số còn lại đã dạt vào trú tại Côn Đảo.

Từ thế kỷ 15-thế kỷ 16 có rất nhiều đoàn du hành của châu Âu ghé qua thăm Côn Đảo.

Cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18 các nhà tư bản Anh, Pháp đã bắt đầu để ý đến các nước phương Đông. Nhiều lần các công ty của Anh, Pháp cho người tới Côn Đảo điều tra, dò xét tình hình mọi mặt với dụng ý xâm chiếm Côn Đảo.

Năm 1702, năm thứ 12 đời Chúa Nguyễn Phúc Chu, Công ty Đông-Ấn của Anh đổ quân lên Côn Đảo xây dựng pháo đài và cột cờ.

Sau 3 năm, ngày 3 tháng 2 năm 1705 xảy ra cuộc nổi dậy của người Mã Lai Macassar (lính đánh thuê của chính quyền Anh), đoàn quân Anh phải rời bỏ Côn Đảo.

Ngày 28 tháng 11 năm 1783, Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), trong chuyến đem hoàng tử Cảnh và vương ấn của Chúa Nguyễn Ánh về Pháp, tự đứng ra đại diện cho Nguyễn Ánh để ký với Bá tước De Mantmarin, đại diện cho vua Louis XVI của Pháp, Hiệp ước Versailles. Đó là văn kiện đầu tiên của nhà Nguyễn nhượng cho Pháp chủ quyền cửa biển Đà Nẵng và quần đảo Côn Lôn. Để đổi lại Pháp giúp Nguyễn Ánh 4 tàu chiến, 1200 lính, 200 pháo thủ, 250 người lính Phi để chống lại nhà Tây Sơn.

Tương truyền, trong đợt thứ 3 bị Tây Sơn truy sát Nguyễn Ánh đã trốn ra Côn Lôn. Sống ẩn dật mấy tháng trời ở đây. Vì thế, hiện nay ở đảo Côn Sơn có một ngọn núi cao gọi là núi Chúa; Đền thờ thứ phi của Nguyễn Ánh là Hoàng Phi Yến ở làng An Hải và Miếu Cậu thờ Hoàng tử Cải con của thứ phi Hoàng Phi Yến tại làng Cỏ Ống.




Ngày 1 tháng 9 năm 1858, Pháp tấn công Đà Nẵng chiếm đóng bán đảo Sơn Trà, chuẩn bị đánh Huế.

Tháng 4 năm 1861, Pháp đánh chiếm Định Tường. Chính trong thời gian này, Pháp khẩn cấp đặt vấn đề chiếm đóng Côn Đảo vì sợ Anh chiếm mất vị trí chiến lược quan trọng này.

10 giờ sáng ngày 28 tháng 11 năm 1861, Bonard (thủy sư đô đốc Pháp) hạ lệnh cho thông báo hạm Norzagaray đến xâm chiếm Côn Lôn.

Trung úy Hải quân Pháp Lespès Sebastien Nicolas Joachim lập biên bản: "Tuyên cáo chủ quyền" của Pháp tại Côn Đảo.

Ngày 14 tháng 1 năm 1862 chiếc tàu chở hàng (Nievre) chở một số nhân viên ra đảo, họ có nhiệm vụ tìm vị trí thuận lợi dựng tạm hải đăng Côn Đảo, nhằm chống chế nếu có nước nào phản kháng hành động tuyên bố chủ quyền.

Nhà tù


Ngày 1 tháng 2 năm 1862 Bonard ký quyết định thành lập nhà tù Côn Đảo, và từ đó biến Côn Lôn thành nơi giam giữ những người tù chính trị Việt Nam với hệ thống chuồng cọp nổi tiếng. Vì vậy dưới thời Pháp thuộc đã có câu rằng:

"Côn Nôn đi dễ khó về
Già đi bỏ xác, trai về nắm xương"

Quần đảo Côn Lôn trước khi thuộc Pháp, thuộc tỉnh Hà Tiên, sau đổi cho tỉnh Vĩnh Long quản lý.

Ngày 16 tháng 5 năm 1882 tổng thống Pháp Jules Grévy ký sắc lệnh công nhận quần đảo Côn Lôn là một quận của Nam Kỳ.

Tháng 9 năm 1954 chính quyền Ngô Đình Diệm tiếp tục chế độ nhà tù của Pháp và đổi tên quần đảo Côn Lôn thành hải đảo Côn Sơn.

Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh thành lập tỉnh Côn Sơn.

Ngày 24 tháng 4 năm 1965 Việt Nam Cộng hòa đổi tỉnh Côn Sơn thành cơ sở hành chính Côn Sơn, trực thuộc bộ Nội vụ và chức tỉnh trưởng được đổi thành Đặc phái viên hành chính.

Sau Hiệp định Paris, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu lại đổi tên quần đảo này một lần nữa là Phú Hải. Các trại tù đều được ghép thêm chữ Phú. Giai đoạn này số tù nhân lên đến 8.000 người.

Với chế độ tàn bạo của nhà tù khoảng 20.000 người Việt Nam đã chết và được chôn cất tại Nghĩa trang Hàng Dương.

Hiện nay Côn Đảo là một huyện có chính quyền một cấp, thông qua các cơ quan chức năng huyện, trực tiếp đến địa bàn dân cư, không có các cấp phụ thuộc như xã, phường hay thị trấn.

Dân số tính đến cuối năm 2003 là 4.466 người, thuộc 9 khu dân cư.

Người dân Côn Đảo luôn được đánh giá là hiền lành, chất phác và rất thân thiện.

Côn Đảo đã được phủ sóng điện thoại và chất lượng sử dụng rất tốt. Hiện có 3 mạng điện thoại di động phủ sóng là Vinaphone, Mobifone và Viettel. Ngoài ra có mạng cố định không dây của Viettel. Cuối tháng 8/2007 Côn Đảo đã kết nối Internet tốc độ cao ASDL. Ngoài ra, Côn Đảo còn có đài phát thanh và truyền hình.

Thị trấn Côn Đảo

Nằm trên một thung lũng hình bán nguyệt ở tọa độ 106°36′10″ kinh độ Đông và 8°40′57″ vĩ độ Bắc. Cao độ trung bình khoảng 3 m so với mặt nước biển. Chiều dài từ 8 đến 10 km và chiều rộng từ 2 đến 3 km. Một mặt trông ra biển (Vịnh Đông Nam). Ba mặt còn lại vây quanh là núi, chính nơi đây tập trung toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của cả quần đảo. Từ đất liền có những chuyến du lịch thường xuyên ra Côn Đảo.

Thị trấn Côn Đảo nằm ở khoảng giữa của sân bay Cỏ Ống và cảng Bến Đầm. (khoảng cách ước chừng khoảng 12 km). Thị trấn Côn Đảo là nơi tập trung dân cư, khu resort nghỉ dưỡng phục vụ du khách và các đơn vị hành chính của huyện Côn Đảo.

Côn Đảo Ngày Nay:

Một quá khứ bi hùng đã đi qua ngày nay Côn Đảo đang vươn mình trở thành một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng nhất Việt Nam và mang tầm vóc quốc tế với những dự án khổng lồ về du lịch, một thiên đường cho những ai yêu thích khám phá thiên nhiên, trải nghiệm lịch sử, hay chỉ đơn thuần là "trốn chạy" khỏi cuộc sống đô thị ồn ào náo nhiệt.

Bãi biển Hoành Sơn yên bình trong nắng chiều

Đèo Ngang là con đèo vượt dãy Hoành Sơn, là một chốt hiểm yếu trên con đường thiên lý Bắc – Nam. Đèo Ngang nổi tiếng không chỉ vì yếu tố lịch sử mà còn là một thắng cảnh nổi tiếng của dải đất miền trung đầy nắng gió. Trên đỉnh đèo có Hoành Sơn Quan, được xây từ thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn, vẫn đứng sừng sững qua bao mưa nắng thời gian cho tới bây giờ… Đèo Ngang đã trở thành một huyền thoại đi vào văn chương, thi ca.

Hoành Sơn (núi ngang) là một dãy núi ở phía nam tỉnh Hà Tĩnh, phía bắc tỉnh Quảng Bình. Hoành Sơn và sông Gianh là biểu trưng lịch sử, văn hoá, địa lý của tỉnh Quảng Bình.



Hoành Sơn dài 50 km, chạy từ dãy Trường Sơn ở phía tây ra Biển Đông. Đỉnh cao nhất trong dãy núi có độ cao tuyệt đối là 1044 m. Trước kia, muốn vượt qua dãy núi này, người ta thường phải đi lên đèo Ngang cao tới 256 m và dài tới 6 km rất khó đi. Từ tháng 8 năm 2004, một hầm đường bộ được hoàn thành giúp cho việc đi lại giữa Quảng Bình và Hà Tĩnh trở nên thuận tiện hơn.




Tìm một chặng nghỉ chân trước khi vượt qua con đèo và dãy Hoành Sơn, tôi đã dừng lại ở bãi biển Hoành Sơn. Nằm ngay dưới chân đèo Ngang, đúng hơn là nằm ngay ngã ba từ tuyến quốc lộ 1A đi sát biển phân nhánh - một nhánh lên đèo theo con đường xưa cả ngàn năm, một nhánh đi xuyên hầm Đèo Ngang qua núi, bãi biển Hoành Sơn hoang sơ và lẩn khuất…




Bãi Hoành Sơn thuộc địa phận xã Kỳ Nam, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh – cách chân đèo Ngang chưa tới 2km (theo hướng quốc lộ Bắc – Nam), phía bên kia là địa phận Quảng Bình. Có lẽ ở nơi “tận cùng” này, mọi thứ vẫn còn hoang sơ như con đèo và dãy Hoành Sơn hùng vĩ.




Bãi biển Hoành Sơn được dãy núi bao bọc che chở nên kín đáo và lặng gió; nước trong, xanh ngắt. Nơi đây thừa hưởng khí hậu cũng như phong cảnh của cả biển và núi rừng. Ở bãi biển có thể nhìn thấy dãy Hoành Sơn  - dãy núi chạy từ dải Trường Sơn – kéo ra tận biển Đông. Ở đó cũng có những bãi đá lô xô lan từ núi ra biển như như bãi “đá nhảy” như nhiều bãi biển miền Trung…




Bãi biển Hoành Sơn nhỏ, hẹp, không thể là những bãi tắm hoành tráng mang tính công nghiệp du lịch ở miền trung như Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Lò (Nghệ An)… nhưng lại gây ấn tượng bởi sự hùng vĩ và hoang sơ của thiên nhiên, sự giản dị của cuộc sống con người. Bãi biển Hoành Sơn chắc chắn sẽ hấp dẫn những người ưa phiêu lưu, khám phá. Thử xem, một buổi chiều trên bãi biển, trời man mác, không có ai và bất chợt một… đàn bò hiện ra. Dải Hoành Sơn đâm ra biển xanh mờ, những con sóng chồm lên bãi đá… Và thử xem, buổi chiều lên con đèo và xuống khi trời muộn; vẳng nghe thơ Bà Huyện Thanh Quan: “Một mảnh tình riêng ta với ta…”.











Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng-Bắc Giang

 Kể từ khi Hòa thượng Thiền sư Thích Thanh Từ lên núi Lớn ở Bà Rịa-Vũng Tàu cất “Pháp Lạc Thất” tu Thiền (1969), sau khi ngộ “lí sắc không” Ngài ra thất, mở khóa I dạy tu Thiền. Mạch nguồn dòng chảy Thiền bắt đầu khơi chảy, sau đó Ngài chủ trương “Khôi phục Thiền Tông đời Trần (Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ).

Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng là một công trình văn hóa kiến trúc nghệ thuật nhằm bảo tồn, tôn vinh và phát huy giá trị phi vật thể của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, phát huy tiềm năng “du lịch văn hóa tâm linh” ở khu vực núi Nham Biền; gắn kết với hệ thống đình chùa, các di tích lịch sử, và danh lam thắng cảnh trên địa bàn huyện Yên Dũng; nối kết với di tích Tây Yên Tử. Thiền viện Trúc lâm Phượng Hoàng còn là nơi lưu giữ thư tịch, văn hóa phẩm Phật giáo Việt Nam, để cho những ai muốn nghiên cứu, học tập, thực hành theo Thiền phái Trúc Lâm.

Nham Biền là tên dãy núi nằm ở địa phận hai huyện Yên Dũng và Việt Yên thuộc tỉnh Bắc Giang, đột khởi giữa vùng đồng bằng Yên Dũng cổ với khí thế hùng vĩ nối liền hai dòng sông Thương và sông Cầu, từ ngàn xưa đã là vùng có vị trí chiến lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đáng kể hơn, đây còn là nơi lưu giữ những dấu tích đặc biệt về văn hóa và tâm linh rất quan trọng…




Trong dãy Nham Biền, đỉnh cao nhất của nó là đỉnh Non Vua, nơi này linh khí rất mạnh, chỉ những ngày nắng đẹp mới thấy ngọn. Đỉnh núi Non Vua cao gần 300m so với mặt nước biển. Từ trên sườn núi có những khe nước nhỏ chảy xuống chùa Nguyệt Nham, rồi róc rách chảy vào sông Thương. Đặc biệt hơn cả, Non Vua nằm trong khu vực dày đặc  những di tích lịch sử thời Lý- Trần  như minh chứng cho sự linh thiêng của vùng đất này với nhiều chùa  như chùa Hang Chàm, chùa Nguyệt Nham, chùa Liễu Đê, chùa Kem v.v. Cách đỉnh Đền Vua 15km về phía Đông Bắc là chùa Vĩnh Nghiêm (còn gọi là chùa La) thuộc thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập từ thế kỷ XIII – nơi Trúc Lâm Tam tổ từng trụ trì và thuyết pháp, đào tạo tăng ni.

Chính vì vậy mà mới đây, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang đã lập dự án xây thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng trên đỉnh  Non Vua thuộc xã Nham Sơn, huyện Yên Dũng. Lễ đặt đá khởi công xây dựng Thiền Viện diễn ra vào ngày 26/11/2011 (tức ngày mùng 2/11 năm Tân Mão).

Về quy mô, Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng thuộc địa phận thôn Kem, xã Nham Sơn, huyện Yên Dũng; phía Bắc giáp núi Nham Biền và khu dân cư thôn Kem, Minh Phượng, phía Nam giáp thôn Minh Phượng, phía Đông giáp núi Nham Biền, phía Tây giáp khu dân cư thôn Kem và hồ chứa nước xã Nham Sơn. Đây là nơi nghiên cứu, bảo tồn, lưu giữ các thư tịch, ấn phẩm văn hoá Phật giáo và Thiền phái Trúc Lâm, giới thiệu bản sắc văn hoá Phật giáo Việt Nam và là khu văn hoá tâm linh, du lịch sinh thái.




Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng có diện tích khoảng 18ha; trong đó, riêng quy mô xây dựng Thiền viện 12,5ha, gồm: Đất xây dựng Khu nội, ngoại Thiền viện, đất giao thông, sân bãi và đất cây xanh. Ngoài ra, các tiêu chuẩn hạ tầng kỹ thuật về giao thông, hệ thông điện, cấp thoát nước… được xây dựng và thiết kế đồng bộ đáp ứng các tiêu chí theo quy hoạch.

Quy hoạch tổng thể Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng rất chú trọng tới các điểm nhấn về không gian, vị trí xây dựng các hạng mục; hình thức kiến trúc Phật giáo theo truyền thống, hài hòa với cảnh quan và phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội.

Việc xây dựng Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng sẽ tạo thêm cảnh quan du lịch sinh thái, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh tín ngưỡng của nhân dân, lưu giữ và phát huy những giá trị văn hóa đạo đức của tiền nhân, nhất là tiếp nối tư tưởng của dòng thiền Trúc Lâm. Đồng thời “nối liền” du khách bốn phương với một hệ thống các điểm du lịch văn hóa tâm linh lớn trong vùng như Đền Kiếp Bạc, chùa Vĩnh Nghiêm và non thiêng Yên Tử…

Núi và biển Sầm sơn - Thanh Hóa vẻ đẹp hấp dẫn

Bãi biển Sầm Sơn (thuộc thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá) cách thành phố Thanh Hóa 16 km về phía Đông và cách Hà Nội 170km, là một trong những khu du lịch nghỉ mát nổi tiếng của Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ 20. Với bãi biển chạy dài gần 6 km từ cửa Lạch Hới đến chân núi Trường Lệ, đây là nơi tắm biển rất tốt. Biển Sầm Sơn với bãi cát vàng thoai thoải, nước trong xanh và nồng độ muối vừa phải rất phù hợp với sức khoẻ con người.

Với bãi biển chạy dài gần 6 km từ cửa Lạch Hới đến chân núi Trường Lệ, đây là nơi tắm biển rất tốt. Biển Sầm Sơn với bãi cát vàng thoai thoải, nước trong xanh và nồng độ muối vừa phải rất phù hợp với sức khoẻ con người. Đây là nơi rất lý tưởng để thực hiện các tour du lịch ngắn ngày trong dịp hè như: du lich biển sầm sơn 2 ngày.

Rặng dừa duyên dáng ven biển
 

Ngay từ thời Pháp thuộc, làng Núi Sầm Sơn cùng bãi biển dưới chân núi được coi là khu nghỉ mát cho các quan chức người Pháp. Sầm Sơn nhanh chóng trở thành nơi nghỉ mát nổi tiếng của Ðông Dương, và dần dần trở thành bãi tắm lý tưởng thu hút khách du lịch thập phương. Từ nhiều thập niên trước, đã có nhiều biệt thự nghỉ mát mọc lên ở đây. Vua Bảo Ðại, ông vua cuối cùng của triều Nguyễn cũng xây biệt thự riêng ở Sầm Sơn.
 

Thiên nhiên đã ưu ái cho vùng đất này những bãi biển kỳ thú, nên thơ. Đến với Sầm Sơn du khách sẽ được hoà mình với biển cả mênh mông soi bóng núi Trường Lệ duyên dáng; được nghe bản hoà tấu của biển và núi non với rì rào sóng vỗ bờ, với những hàng dừa xanh lao xao, những rặng phi lao vi vu trong gió, những tiếng sáo diều đánh thức trời xanh…

Biển Sầm Sơn vào mỗi thời khắc trong ngày lại có những vẻ đẹp khác nhau. Du khách tha hồ khám phá và tận hưởng những khoảnh khắc tuyệt vời ấy. Sáng sớm bình minh lên, bầu trời ửng hồng phía chân trời, từng đoàn thuyền đánh cá của ngư dân làng Núi trở về sau một đêm đánh bắt ngoài khơi xa, những nụ cười rạng rỡ, tràn đầy hạnh phúc báo hiệu một đêm ra khơi thành công. Và chợ hải sản được họp ngay bên bờ biển, với nguồn hải sản vô cùng phong phú của biển Sầm Sơn, du khách có thể chọn lựa và thưởng thức tôm, cua, ghẹ, mực, cá thu… là những đặc sản vừa được cất lên từ biển. Khi mặt trời dần lên cao, biển Sầm Sơn lóng lánh dát vàng, từng cơn sóng vỗ bờ trắng xoá ôm lấy dải cát mịn màng ánh lên trong nắng, những cánh diều rực rỡ giữa màu xanh của bầu trời, núi non và biển cả… Buổi chiều, trời mát dịu, bãi biển tập trung rất đông người xuống tắm. Những tiếng hò reo với những cơn sóng xô, những tiếng vui đùa đuổi nhau trên cát… Du khách cũng có thể nằm phơi mình trên bãi biển, nghe những thanh âm của biển và đón những cơn gió mang theo vị mặn rất đặc trưng để tâm hồn thư thái hơn, êm dịu hơn hoặc cùng nhau xây lâu đài cát rồi lại trả nó về với biển khi những đợt sóng lên cao… Đêm Sầm Sơn, biển mờ ảo dưới ánh trăng, sao, vẫn những đợt sóng vỗ bờ nhưng dường như êm đềm hơn, vẫn là những âm thanh ấy nhưng không phải là tiếng vui đùa của du khách nhảy theo từng con sóng bạc đầu mà là những tiếng thì thầm cùng với biển và sóng…

Đêm Sầm Sơn dường như có hai thế giới trái ngược nhau được ngăn cách bởi bức tường thiên nhiên là những rặng dừa và phi lao duyên dáng. Tạm biệt biển lấp lánh ánh trăng sao, tạm biệt bản nhạc du dương của gió, của sóng…, bước qua khỏi cái hàng rào thiên nhiên ấy, du khách sẽ thấy choáng ngợp trước đường Hồ Xuân Hương dọc theo bờ biển rực rỡ ánh đèn, cửa hàng, cửa hiệu tấp nập người qua lại. Trên vỉa hè ven biển là những sạp hàng bán đồ lưu niệm được làm từ các sản phẩm biển muôn màu sắc. Du khách đến với biển Sầm Sơn hẳn không quên mang về tặng người thân, bè bạn những món quà lưu niệm đầy ý nghĩa. Nếu không muốn bách bộ, du khách có thể đi dạo trên con đường ven biển với những chiếc xích lô xinh xắn mà chủ nhân của nó ai nấy đều giàu lòng mến khách, thân thiện và cởi mở. Họ sẵn lòng giới thiệu tới du khách về những thắng cảnh đẹp trên quê hương Sầm Sơn yêu dấu. Du khách cũng có thể thuê những chiếc xe đạp đôi để cùng bạn bè, người thân tự mình khám phá cuộc sống sôi động về đêm của thị xã biển Sầm Sơn.

Không chỉ có biển thơ mộng cùng bãi tắm đẹp, thiên nhiên còn ban tặng cho Sầm Sơn nhiều danh lam – thắng cảnh, di tích lịch sử nổi tiếng trên núi Trường Lệ với những truyền thuyết lung linh sắc màu huyền thoại mang đậm chất nhân văn. Hòn Cổ Giải là nơi Trường Lệ tiếp xúc với biển trông như con giải khổng lồ đang vươn ra biển khơi. Ðền Ðộc Cước (còn gọi là đền Gầm) ngự trên đỉnh hòn Cổ Giải, điểm cực bắc của dãy Trường Lệ, ngay cạnh bãi tắm Sầm Sơn. Đền mang tên Độc Cước nghĩa là một chân, gắn liền với truyền thuyết chàng khổng lồ xẻ đôi mình, một nửa ra khơi tiêu diệt thủy quái bảo vệ dân chài, còn một nửa đứng canh trên đỉnh hòn Cổ Giải. Tưởng nhớ công ơn của chàng, người dân Sầm Sơn đã lập miếu thờ chàng ngay bên tảng đá có vết lõm dấu chân khổng lồ tương truyền là bàn chân của chàng và sau này là đền Độc Cước. Trong đền có tượng thần Độc Cước bằng nửa thân người và bước chân khổng lồ trên đá của chàng trai dũng cảm đó.

Để lên đền Độc Cước du khách phải qua 40 bậc đá. Đền được lập từ đời Trần, dựng lại vào thời Lê và đã qua trùng tu nhiều lần. Độc Cước không chỉ là một ngôi đền đẹp mà còn là một thắng cảnh của Sầm Sơn. Đứng ở phía sau đền, du khách sẽ được chiêm ngưỡng biển Sầm Sơn bao la và núi Trường Lệ kỳ vĩ chạy dài theo mép biển, một bức tranh thuỷ mặc tuyệt vời.

Theo sườn núi quanh co giữa những vạt thông reo là hòn Trống Mái lãng mạn tình tứ, một thắng tích độc đáo và kỳ thú. Đứng sát cạnh du khách chỉ thấy hai khối đá lớn nằm chênh vênh trên một tảng đá bằng phẳng gọi là hòn Đá Bạn. Nhưng càng lùi xa, trông chúng càng giống một đôi chim đá khổng lồ đang nằm châu mỏ vào nhau.

Kéo Rồng – vào mỗi buổi sáng của làng chài Sầm Sơn
 

Phía nam dãy Trường Lệ còn có một bãi tắm rất đẹp, cảnh quan môi trường còn rất nguyên sơ, đó là bãi tắm Tiên ẩn vào chỗ lùi của chân dãy Trường Lệ như một thung lũng nhỏ rất nên thơ. Nơi đây hứa hẹn một khu du lịch nghỉ dưỡng hiện đại trong tương lai. Trên đỉnh núi là đền Cô Tiên uy nghi, cổ kính, nơi thờ vọng Thần Độc Cước và Mẫu Liễu Hạnh. Đó là những nơi mà du khách thường tới viếng thăm mỗi khi đến Sầm Sơn.

Chú rùa trên núi Trường Lệ

Sầm Sơn với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ quả là vùng sơn thuỷ hữu tình, biển cả bao la đầy chất thơ cùng những thắng tích và huyền thoại mang đậm chất nhân văn và lòng mến khách của người dân nơi đây. Biển Sầm Sơn hứa hẹn một kỳ nghỉ hè đầy hấp dẫn và lý thú.

Buổi tối

Không chỉ có biển thơ mộng cùng bãi tắm đẹp, thiên nhiên còn ban tặng cho Sầm Sơn nhiều danh lam - thắng cảnh, di tích lịch sử nổi tiếng trên núi Trường Lệ với những truyền thuyết lung linh sắc màu huyền thoại mang đậm chất nhân văn. Hòn Cổ Giải là nơi Trường Lệ tiếp xúc với biển trông như con giải khổng lồ đang vươn ra biển khơi. Ðền Ðộc Cước (còn gọi là đền Gầm) ngự trên đỉnh hòn Cổ Giải, điểm cực bắc của dãy Trường Lệ, ngay cạnh bãi tắm Sầm Sơn. Đền mang tên Độc Cước nghĩa là một chân, gắn liền với truyền thuyết chàng khổng lồ xẻ đôi mình, một nửa ra khơi tiêu diệt thủy quái bảo vệ dân chài, còn một nửa đứng canh trên đỉnh hòn Cổ Giải. Tưởng nhớ công ơn của chàng, người dân Sầm Sơn đã lập miếu thờ chàng ngay bên tảng đá có vết lõm dấu chân khổng lồ tương truyền là bàn chân của chàng và sau này là đền Độc Cước. Trong đền có tượng thần Độc Cước bằng nửa thân người và bước chân khổng lồ trên đá của chàng trai dũng cảm đó. 

Để lên đền Độc Cước du khách phải qua 40 bậc đá. Đền được lập từ đời Trần, dựng lại vào thời Lê và đã qua trùng tu nhiều lần. Độc Cước không chỉ là một ngôi đền đẹp mà còn là một thắng cảnh của Sầm Sơn. Đứng ở phía sau đền, du khách sẽ được chiêm ngưỡng biển Sầm Sơn bao la và núi Trường Lệ kỳ vĩ chạy dài theo mép biển, một bức tranh thuỷ mặc tuyệt vời.

heo sườn núi quanh co giữa những vạt thông reo là hòn Trống Mái lãng mạn tình tứ, một thắng tích độc đáo và kỳ thú. Đứng sát cạnh du khách chỉ thấy hai khối đá lớn nằm chênh vênh trên một tảng đá bằng phẳng gọi là hòn Đá Bạn. Nhưng càng lùi xa, trông chúng càng giống một đôi chim đá khổng lồ đang nằm châu mỏ vào nhau. Truyền thuyết kể rằng có đôi vợ chồng yêu nhau, chết biến thành chim vẫn quấn quýt không rời. Các tiên nữ xuống bãi Tiên tắm, cảm cái tình ấy mới biến họ thành đôi chim đá để họ vĩnh viễn bên nhau.

Phía nam dãy Trường Lệ còn có một bãi tắm rất đẹp, cảnh quan môi trường còn rất nguyên sơ, đó là bãi tắm Tiên ẩn vào chỗ lùi của chân dãy Trường Lệ như một thung lũng nhỏ rất nên thơ. Nơi đây hứa hẹn một khu du lịch nghỉ dưỡng hiện đại trong tương lai. Trên đỉnh núi là đền Cô Tiên uy nghi, cổ kính, nơi thờ vọng Thần Độc Cước và Mẫu Liễu Hạnh. Đó là những nơi mà du khách thường tới viếng thăm mỗi khi đến Sầm Sơn.
Sầm Sơn với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ quả là vùng sơn thuỷ hữu tình, biển cả bao la đầy chất thơ cùng những thắng tích và huyền thoại mang đậm chất nhân văn và lòng mến khách của người dân nơi đây. Biển Sầm Sơn hứa hẹn một kỳ nghỉ hè đầy hấp dẫn và lý thú.

Biển Quảng Lợi Xứ Thanh thu hút du khách

Với bờ biển dài ngập tràn cát trắng mịn, thoai thoải bên rặng phi lao quanh năm xanh mướt, nước biển trong vắt, bãi biển xã Quảng Lợi (Quảng Xương) mang nét đẹp hoang sơ và lãng mạn, đã và đang hình thành điểm du lịch hấp dẫn với du khách gần xa.

Biển Quảng Lợi mang nét đẹp hoang sơ với bờ cát trắng, nước biển trong vắt và rặng phi lao xanh mướt sẽ trở thành điểm du lịch hấp dẫn.

Mảnh đất Xứ Thanh được thiên nhiên ưu ái ban tặng hơn 100 km bờ biển, với những bãi cát dài, phẳng mịn, rất thuận lợi cho phát triển du lịch. Nếu như hơn 100 năm nay, du khách biết đến Thanh Hóa với bãi tắm Sầm Sơn thì vài năm trở lại đây, khách du lịch thường nhắc nhiều hơn về một bãi biển mới mang đầy nét quyến rũ, đó là Quảng Lợi nằm cách thành phố Thanh Hóa 20 km về phía nam. Biển Quảng Lợi cuốn hút du khách ở nét nguyên sơ và thơ mộng, với bãi biển ngập tràn cát trắng, thoai thoải bên rặng phi lao quanh năm xanh mướt, con người hồn hậu, hiếu khách.



Biển Quảng Lợi không có cảnh bán hàng rong, không có cảnh chèo kéo, ép khách và ồn ào tiếng rít của còi xe hay tiếng nhạc ầm ĩ bên bờ biển. Mọi hoạt động diễn ra thật êm đềm trong một không gian vắng lặng, thanh sạch từ đường đi đến bãi cát chạy dài tít tắp. Đã lâu lắm rồi, người dân Quảng Lợi gắn bó với biển, coi hải sản là báu vật vô giá mà trời đất đã ban tặng cho mình. Và họ sống chan hòa, nồng nàn như chính hương vị mặn mòi của muối biển quê hương mình vậy. Có lẽ vì thế mà giá cả dịch vụ ở đây hãy còn khá là dễ chịu so với các khu du lịch biển khác.

Đến với Quảng Lợi du khách không chỉ được ngâm mình dưới dòng nước trong mát, được đùa giỡn trên những con sóng tinh nghịch, mà còn thưởng thức những loại đặc sản biển và hòa mình khám phá cuộc sống của bà con ngư dân thuần phác, hiếu khách nơi đây. Ngay từ lúc mặt trời còn ngái ngủ dưới những con sóng thì bà con ngư dân đã xuất hiện trên bờ biển cùng với những tấm lưới trĩu nặng trên vai. Các hộ gia đình cùng với thuyền, lưới đang chuẩn bị một ngày làm việc mới. Điều thú vị nhất đó là du khách có thể cùng với ngư dân ở đây kéo Rùng (cách gọi của những ngư dân nơi đây) để đón những mẻ cá đầu tiên của ngày.

Thú vị làm sao khi được ngắm nhìn những mẻ lưới thu về nặng trĩu những cá, tôm, mực... là thành quả của những giờ lao động vất vả của ngư dân.


Những mẻ tôm cá được lần lượt chia đều cho các hộ gia đình để kịp giờ ra chợ. Xe máy của các nhà buôn đổ về đây để thu mua hải sản, du khách tập trung về đây lựa chọn đồ ngon để tự tay chế biến cho mình những món ăn theo sở thích…, tất cả tạo nên một không khí rất riêng của biển nơi đây.

Nếu chúng ta được ngồi trên những chiếc ghế dưới rặng phi lao nhìn ra biển xa, nghe sóng ru êm đềm, tạm quên đi những lo toan thường nhật, rồi nhâm nhi món mực khô chấm tương ớt hoặc cá thu tươi nướng kẹp bánh đa với vài cọng rau thơm, thì thật thú vị làm sao.

Buổi trưa, khi mặt trời lên cao, nhìn ra xa đảo Hòn Mê nổi lên mặt biển khơi, xanh như một viên ngọc bích. Làn cát trắng mịn màng trải dài tít tắp, êm ả và bao dung đón nhận những vỗ về rì rào không dứt của sóng biển. Từ xanh thẳm của biển khơi chợt hiện về dăm ba cánh buồm nâu, dập dìu trên đầu những con sóng bạc, đôi lúc lại ánh lên những tia nắng mặt trời. Tất cả khung cảnh biển Quảng Lợi hiện ra trước mắt chúng ta như một bức tranh sơn hải kỳ thú.

Đến với biển Quảng lợi, du khách có thể ngồi trên những chiếc thuyền ra khơi đánh cá cùng ngư dân để trực tiếp cảm nhận cảm giác lênh đênh trên biển cả. Đây là những trải nghiệm khó quên trong hành trình khám phá biển của lữ khách. Giá cả của những tour du lịch này rất phải chăng, phù hợp với phần đông túi tiền của mọi người.

Trong những khoảnh khắc êm đềm bên bờ biển, bất chợt cả không gian lại vỡ ra bởi tiếng cười, tiếng gọi nhau xôn xao của các cô gái vạn chài má hồng, chân cát, đung đưa những đôi quang gánh, thúng mủng ra đón cá về. Ta có cảm giác như họ thật hạnh phúc và bình yên với cuộc sống nơi đây, với những ân huệ mà  biển cả trao tặng. Con người và thiên nhiên cùng chung sống hài hòa, tạo cho ta cảm giác yên bình, thư thái khi đến nghỉ dưỡng tại vùng biển Xứ Thanh tuyệt đẹp này.

Đến với biển Quảng Lợi là đến với một bờ biển còn hoang sơ vào bậc nhất Việt Nam, hiện tại ở bãi biển mới có vài nhà hàng chủ yếu làm bằng chất liệu gỗ, tre, luồng vừa bảo đảm thoáng mát, tạo cảm giác thân mật gần gũi giữa chủ với khách. Chúng ta có thể chọn bất kỳ một nhà hàng hay một quán nhỏ nào và gọi các món ăn hoặc nhờ chủ nhà hàng tư vấn mà không phải chịu cảnh chèo kéo, mời mọc.

Ẩm  thực là một phần không thể thiếu được khi ta muốn khám phá vùng đất và con người nơi đây. Có nhiều món ăn hấp dẫn khẩu vị của thực khách như: Mực hấp gừng hoặc tẩm bột rán, cá chim xốt chua ngọt, tôm rang muối, cua hấp cay hay cua bóc thịt nấu canh miến, canh cá hồng nấu chua, cá trích nướng than xoan, kẹp bánh đa ăn kèm rau thơm chấm nước mắm cốt tỏi ớt, sò huyết nướng... Đặc biệt, những ngày hè nóng nực này mà được nếm thử món “canh dắt Quảng Lợi” ăn kèm với bánh đa Kế thì thật tuyệt vời!

Nghỉ mát ở Quảng Lợi, du khách có thể mua những đặc sản biển về làm quà cho người thân như: nước mắm cốt, mực khô, cá khô, cá thu nướng cháy, sứa khô…

Mới đây, biển Quảng Lợi đã được đưa vào quy hoạch thiết kế thành khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng. Những con đường khang trang đang được mở mang, những căn nhà vườn sang trọng đang xây dựng, trong tương lai không xa, biển Quảng Lợi sẽ phát huy tốt hơn nữa những tiềm năng sẵn có để sớm trở thành điểm đến quen thuộc của du khách gần xa.

Hiện nay, Công ty SOTO đang xúc tiến hoàn thiện cơ sở hạ tầng, một số hạng mục cần thiết và công tác khác phục vụ cho du khách, như công tác bảo đảm an ninh trật tự, an toàn cho khách du lịch (bảo vệ, cứu hộ); hệ thống biển báo, chỉ dẫn... để năm 2013 có thể đưa một phần cơ bản vào hoạt động phục vụ du khách; đồng thời, công ty cũng mong chính quyền và nhân dân địa phương trong vùng dự án hỗ trợ, ủng hộ công ty GPMB số diện tích 10 ha còn lại (xã Quảng Thái 5 ha, xã Quảng Lợi 3 ha và xã Quảng Thạch 2 ha), bàn giao đất sạch để công ty kêu gọi các nhà thầu thứ cấp đầu tư, đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án hoàn thành đúng thời gian đề ra - năm 2016 đưa dự án vào hoạt động.