Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

Bánh đúc nộm ngon lành trong lòng Hà Nội

(Mytour.vn) - Một món ăn đặc trưng vùng Bắc Bộ với từng miếng bánh đúc mềm mềm mịn hòa quyện trong nước canh vừng lạc thơm ngậy tạo nên nét ẩm thực mang hương vị mộc mạc nhưng vô cùng quyến rũ và hấp dẫn du khách.

Vào những ngày rằm hay mùng một hàng tháng, hình ảnh các bà các mẹ đi lễ về trên tay cầm theo túi bánh đúc lạc với tương hay bánh đúc nộm đã trở nên khá quen thuộc trong nhiều gia đình. Bánh đúc vốn là món ăn bình dị, mộc mạc của vùng nông thôn nhưng lại dần len lỏi vào những bữa quà chiều ở chốn thành thị lúc nào không hay. Món ăn dân dã mang đậm hồn quê Việt có sức hấp dẫn đặc biệt.

Có thể tìm thấy khá nhiều gánh bánh đúc nộm trên các con phố của thủ đô nhưng ngon và nổi tiếng nhất phải kể đến quán bánh đúc ở 47 Châu Long hoặc gánh hàng rong của cô Lê, buổi sáng ngồi trước cửa nhà số 66 Hàng Bạc, còn buổi chiều cô chuyển ra ngồi ở trước ngôi nhà cổ số 14 Đào Duy Từ.

 
Từng miếng bánh đúc bóng mịn được cô bán hàng nhanh tay thoăn thoắt cắt thành sợi mỏng, dài cho vào bát lớn rồi chan thêm nước canh vừng lạc lẫn giá chần vào. Mọi thao tác của cô bán hàng đều rất nhanh và thuần thục, chỉ một loáng thôi thực khách đã thấy ngay bát bánh đúc nộm thơm ngon trước mắt. Ăn kèm với bánh đúc nộm không thể thiếu các loại rau thơm như rau ngổ, kinh giới, tía tô, hoa chuối hay thân chuối non thái mỏng... Nếu ăn được cay, thực khách có thể cho thêm một chút ớt bột hoặc vài lát ớt tươi để cảm nhận trọn vẹn màu sắc và hương vị của món ăn bình dị mà lại đầy tinh tế này.

Khi ăn, thực khách sẽ cảm nhận thấy từng miếng bánh đúc mềm mịn hòa quyện với vị thơm ngậy, bùi bùi của nước canh vừng lạc, ngọt mát của giá chần và phảng phất mùi ngan ngát của các loại rau sống, tạo thành một hương vị nhẹ nhàng mà cuốn hút cứ lan tỏa trong miệng, làm say lòng những con người của Hà Nội.


Để có bánh đúc ngon, khi nấu phải lấy đũa cả quấy liên tục thật đều tay sao cho bột không vón, không sát nồi. Lửa nấu bánh phải nhỏ và đều thì bánh mới chín và không bị khê. Bánh đúc đạt "chuẩn" là khi nguội phải có độ mặn, bóng mịn, không nồng vôi và khi cắt không bị dính tay.

Nhưng "hồn cốt" của món bánh đúc nộm lại nằm ở chính thứ nước canh màu trắng sữa béo ngậy từ vừng lạc. Người bán hàng phải rất cẩn thận trong khâu chọn nguyên liệu, vừng lạc phải hoàn toàn tươi mới nếu không chỉ cần có một hạt hỏng thôi thì cả nồi nước canh sẽ bị ám mùi rất khó chịu. Sau đó, vừng lạc được đem xay nhỏ và đun cùng với nước giá chần tạo thành thứ nước canh dậy mùi thơm, ngậy ngậy, béo béo nhưng không bị ngấy mà vẫn đảm bảo được vị thanh mát đầy hấp dẫn.

Với những nguyên liệu đơn giản, bình dị như gạo, rau, vừng, lạc cùng hương vị nhẹ nhàng, tinh tế, bánh đúc nộm là món chay, món quà ăn chơi mộc mạc chinh phục vị giác cả những người sành ăn nhất. Một bát bánh đúc nộm có giá 20.000 đồng.
(Nguồn:Mytour.vn (Theo VNE)

Thăm vẻ đẹp xưa ở Hưng Yên với Làng Nôm

Từ Hà Nội chạy men theo đường sắt Bắc Nam khoảng 30 cây số, chúng tôi đến huyện Văn Lâm, Hưng Yên để thăm làng Nôm, một làng cổ đang được nhiều người yêu thích nét đẹp xưa tìm tới. Hai bên đường là những cánh đồng lúa xanh bát ngát yên bình.

Bước qua cánh cổng làng cổ kính có từ hàng trăm năm nay, một không gian làng quê còn khá nguyên vẹn mở ra trước mắt mọi người. Nằm ở vị trí trung tâm làng có một hồ nước rộng và trong xanh.

Hai bên hồ là những cây cau thẳng tắp, những cây nhãn vàng ươm bởi những sợi tơ hồng quấn quýt. Đặc biệt quanh hồ còn có nhiều ngôi nhà cổ, nhiều nhà thờ dòng tộc có niên đại hơn trăm tuổi cũng long lanh in hình dưới hồ nước.



Bao bọc quanh làng Nôm vẫn còn nguyên những rặng tre xanh kĩu kịt gió đưa. Những con đường gạch đỏ son và bờ rào duối hiếm hoi còn lại xen lẫn với dãy bờ tường xây dẫn vào các ngõ ngách của làng.

Đối diện với cổng làng, bên kia hồ là một quần thể kiến trúc đẹp gồm đình làng, giếng cổ và cây đa cổ thụ. Ông Đỗ Ngọc Vượng, phát thanh viên của làng cho biết: “Làng Nôm hiện nay có hơn 600 nhân khẩu. Làng có từ những năm đầu Công nguyên, nhưng phải đến cuối thế kỷ XV, dân cư mới tập trung đông đúc. Trước đây, người dân trong làng có nghề buôn đồng nát. Bà con ở đây đi mua đồng nát về bán lại cho các lò đúc đồng ở địa phương và các vùng lân cận. Nhờ chịu thương, chịu khó, sáng tạo trong làm ăn buôn bán, nên làng Nôm nhờ đó mà ngày càng hưng thịnh, tạo điều kiện cho các hoạt động văn hóa phát triển”.



Ông Vượng cho biết thêm, hằng năm cứ vào ngày 11, 12 tháng Giêng Âm lịch, dân làng lại nô nức đón ngày hội làng. Đây là dịp vừa để dân làng báo ơn công đức với thành hoàng làng, để lưu giữ nét sinh hoạt truyền thống, vừa là ngày hội để con cháu xa gần trở về quê hương, báo hiếu công ơn ông bà, cha mẹ...

Cạnh ngôi đình cổ kính, lọt thỏm dưới cây đa cao tuổi quanh năm tỏa bóng mát là một lớp học mẫu giáo nho nhỏ xinh xinh. Cách đó không xa, cây cầu đá bắc qua sông Nguyệt Đức, nối liền làng với chợ và chùa Nôm cũng là một hình ảnh gây ấn tượng khó quên.

Cây cầu gồm chín nhịp, mặt cầu được ghép bằng những phiến đá xanh. Hai bên thành cầu có các mỏm đá nhô ra được chạm trổ hoa văn rất tinh xảo và cầu kỳ, trông như những cái đầu rồng của những thuyền rồng mà vua chúa ngày xưa hay dùng để đi du ngoạn.

 Chùa Nôm thuộc thiền phái Lâm Tế. Không còn ai nhớ chính xác ngày tháng ra đời của ngôi chùa. Chỉ biết rằng, trên hai tấm bia lớn còn lưu lại tại đây thì chùa đã được xây dựng lại vào năm 1680 và được trùng tu nhiều lần sau đó.



Chùa trước đây là ngôi đại tự có tiếng của Hưng Yên. Theo truyền thuyết thì xưa kia chùa Nôm được xây giữa rừng thông cổ thụ. Có lẽ vì vậy mà chùa còn có tên “Linh thông cổ tự”.

Cạnh chùa, chợ Nôm vẫn tấp nập người mua kẻ bán. Hình ảnh vợ chồng người thợ rèn dưới gốc cây đa, bà cụ đang nhai trầu móm mém bên những cái rá cái rổ đan bằng tay... làm người ta ngỡ mình được đi ngược thời gian trở về mấy mươi năm trước.

Dừng chân bên bến nước, nhìn đàn vịt tung tăng bơi lội giữa mặt hồ, hà hít không khí trong lành, chúng tôi hiểu vì sao làng Nôm đã chinh phục được không ít du khách thập phương lặn lội phương xa tới đây để thưởng ngoạn. Mong sao vẻ đẹp của làng quê Bắc bộ xưa sẽ còn lại mãi ở nơi đây.„




Mytour.vn (Theo Doanhnhansaigon)

 

10 địa điểm du lịch trốn nóng ở Việt Nam

1. Đà Lạt

Thành phố Đà Lạt nằm trên cao nguyên Lâm Viên, tỉnh Lâm Đồng, được người Pháp xây dựng vào đầu thế kỷ 20. Nằm trên độ cao 1.500 và được núi rừng bao quanh, Đà Lạt thừa hưởng một khí hậu miền núi ôn hòa và dịu mát quanh năm.

Lịch sử một thế kỷ cũng để lại cho thành phố một di sản kiến trúc giá trị, được ví như một bảo tàng kiến trúc châu Âu thế kỷ 20. Những ưu thế này giúp Đà Lạt trở thành một trong những điểm du lịch nổi tiếng Việt Nam.

 

10 địa điểm du lịch trốn nóng ở Việt Nam - 1

2. Sa Pa

Sa Pa là một thị trấn vùng cao, khu nghỉ mát nổi tiếng thuộc huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, Việt Nam. Nằm trên một mặt bằng ở độ cao 1.500 đến 1.650m, thị trấn này có khí hậu mang sắc thái ôn đới và cận nhiệt đới, không khí mát mẻ quanh năm, một ngày có đủ bốn mùa.

 

10 địa điểm du lịch trốn nóng ở Việt Nam - 2

 

Nhiệt độ không khí trung bình năm của Sa Pa là 15 °C, nhiệt độ cao nhất mùa hè là 25 độ C, mùa đông có thể dưới 0 độ C và có tuyết rơi.

3. Phia Oắc

10 địa điểm du lịch trốn nóng ở Việt Nam - 3

 

Nằm trên độ cao gần 2.000m, đỉnh Phia Oắc, Cao Bằng hoang sơ được ví như một “tiên cảnh” dành cho những người ưa du lịch khám phá. Nhiệt độ trung bình năm ở nơi đây luôn dưới 15 độ C, do độ ẩm cao nên mây mù thường xuyên bao phủ và vào mùa đông xuất hiện băng tuyết.

Ngoài ra, ẩn trong các khu rừng rậm ở Phia Oắc là hàng chục ngôi biệt thự cổ hoang phế, được xây dựng từ thời Pháp thuộc.

4. Tam Đảo

10 địa điểm du lịch trốn nóng ở Việt Nam - 4

 

Thị trấn Tam Đảo (tỉnh Vĩnh Phúc) được chính quyền thực dân Pháp xây dựng trên dãy núi Tam Đảo để làm nơi nghỉ dưỡng từ đầu thế kỷ 20. Nằm trên độ cao 900 m, đây là nơi có khí hậu mát mẻ, trong lành, với 4 mùa trong một ngày.

Gần thị trấn du lịch nổi tiếng ở miền Bắc này là những danh thắng nổi tiếng như chùa Tây Thiên và đền Tây Thiên, vườn quốc gia Tam Đảo.

5. Mẫu Sơn

 

10 địa điểm du lịch trốn nóng ở Việt Nam - 5

 

Mẫu Sơn là vùng núi cao nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Lạng Sơn, độ cao trung bình khoảng 1.000 m so với mực nước biển. Đây là nơi nổi tiếng với cảnh quan đẹp và các sản vật như chè tuyết sơn, gà sáu cựa, chanh rừng, ếch hương, lợn quay…

Nhiệt độ trung bình ở vùng núi này là 15,5°C, về mùa đông xuống tới nhiệt độ âm, thường xuyên có băng giá và có thể có tuyết rơi. Khu du lịch Mẫu Sơn rộng khoảng 20 ha, có đầy đủ các tiện nghi để phục vụ khách du lịch.

6. Mộc Châu

 

10 địa điểm du lịch trốn nóng ở Việt Nam - 6

 

Cao nguyên Mộc Châu (huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La) có độ cao trung bình 1.050 m so với mực nước biển, mang đặc trưng của khí hậu cận ôn đới.

Với rất nhiều khung cảnh đẹp của các đồi chè, nông trường, rừng núi và sông suối… đây là “địa chỉ đỏ” dành cho dân “phượt” cũng như những người mê nhiếp ảnh ở Hà Nội và các tỉnh miền Bắc Việt Nam

7. Ba Vì

 

10 địa điểm du lịch trốn nóng ở Việt Nam - 7

 

Cách trung tâm Hà Nội 50 km, vườn quốc gia Ba Vì chạy dọc theo hướng Đông Bắc – Tây Nam của dãy núi Ba Vì với đỉnh Tản Viên cao 1.296m, đỉnh Ngọc Hoa cao 1.120m.

Từ đầu thế kỷ 20, Ba Vì đã là địa danh nổi tiếng nhờ sự đa dạng của các hệ sinh thái và có phong cảnh đẹp, khí hậu mát mẻ. Đây vừa là điểm nghỉ dưỡng lý tưởng, vừa là nơi dành cho những người thích khám phá vẻ đẹp của thế giới tự nhiên.

8. Đồng Văn

 

Nằm ở độ cao hơn 1.000m, cao nguyên Đồng Văn nằm ở tỉnh Hà Giang là mảnh đất địa đầu cực Bắc của Việt Nam. Cao nguyên này đã được UNESCO công nhận là công viên địa chất toàn cầu vì những điểm độc đáo trong cấu tạo địa chất.

 

10 địa điểm du lịch trốn nóng ở Việt Nam - 8

 

Đối với khách du lịch, đây là nơi có nhiều danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp, văn hóa độc đáo của các dân tộc thiểu số, khí hậu luôn ôn hòa mát mẻ và chưa bị thương mại hóa, rất phù hợp cho những chuyến “phượt” dài ngày.

9. Bạch Mã

 

10 địa điểm du lịch trốn nóng ở Việt Nam - 9

 

Dãy núi Bạch Mã (Thừa Thiên – Huế) chắc chắn là một trong những nơi nghỉ dưỡng có khí hậu dễ chịu nhất trên các vùng cao của Đông Dương. Nằm ở độ cao gần 1.500m, lại gần biển, nhiệt độ ở Bạch Mã không bao giờ thấp hơn 4 độ C vào mùa đông và vượt quá 26 độ C vào mùa hè.

Khu nghỉ dưỡng trên ngọn núi này đã được người Pháp xây dựng từ thập niên 1930.

10. Bà Nà

 

10 địa điểm du lịch trốn nóng ở Việt Nam - 10

 

Cùng với Ngũ Hành Sơn và Sơn Trà, Bà Nà là một trong những ngọn núi đẹp nhất Đà Nẵng. Rặng núi này có chế độ khí hậu ôn hòa với nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 15-20 độ C, cao nhất chỉ đến 22 – 25 độ C, về đêm khoảng 15 – 17 độ C.

Khu nghỉ dưỡng ở Bà Nà đã được thiết lập từ đầu thế kỷ 20, nhưng bị lãng quên trong nửa thế kỷ do chiến tranh. Đến những năm 2000, Bà Nà mới được “đánh thức” trở lại để trở thành điểm nghỉ dưỡng nổi tiếng của miền Trung.


Nét uy nghiêm cổ kính của nhà thờ Đức Bà

NHÀ THỜ ĐỨC BÀ, TỪ LÂU ĐÃ TRỞ THÀNH NIỀM TỰ HÀO CỦA NGƯỜI DÂN TP. HỒ CHÍ MINH VỚI KIỂU KIẾN TRÚC ĐỒ SỘ VÀ ĐẸP, ĐƯỢC MÔ PHỎNG THEO NHÀ THỜ NOTRE DAME CỦA PARIS. VỚI CHIỀU DÀI 93M, RỘNG 35,90M, CAO 57M, NHÀ THỜ ĐỨC BÀ VỪA CỔ KÍNH VỪA NGUY NGA TRÁNG LỆ.

Về mặt kiến trúc, tất cả các đường nét, gờ chỉ, hoa văn của nhà thờ Đức Bà đều tuân thủ theo kiểu kiến trúc Roman và Gothic. Các cột chịu lực chính được xây bằng các tảng đá lớn; các ô cửa hoa, khung cửa... được xây bằng đá phấn màu trắng (một loại đá rất mềm dùng trang trí cho tường gạch hồng).
 


 
Đặc biệt, nhà thờ Đức Bà có một bộ chuông lớn gồm 6 quả, chế tạo tại Pháp, và được kiến trúc sư Bourard đưa sang Sài Gòn vào tháng 5/1879. Bộ chuông nặng khoảng 30 tấn (kể cả hệ thống đối trọng), tên gọi được đặt theo các nốt nhạc sol, la, si, đô, rê, mi. Khi xây nhà thờ, gác chuông không có mái. Năm 1885, kiến trúc sư Gardes đã thêm mái chóp vào để che gác chuông với tổng chiều cao tính từ đất là 57m. Những chiếc chuông của nhà thờ được điều khiển bằng điện từ bên dưới. Song riêng ba chiếc chuông lớn trước khi đánh đều được khởi động bằng cách đạp (vì quá nặng) cho lắc trước khi bật rơ-le điện. Khi đổ cùng lúc sáu chuông, tiếng chuông vang xa trong phạm vi chừng 10km.

Điều đặc biệt nữa là trong nhà thờ Đức Bà không có chỗ cho nến. Toàn bộ đèn - có từ khi nhà thờ xây dựng xong - đều dùng điện. Nhà thờ khá rộng, có sức chứa tới 1.200 người. Bên trong có hai hàng cột chính hình chữ nhật mỗi bên sáu chiếc tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ. Ngay sau hàng cột chính là một hành lang được chia thành nhiều khoang; mỗi khoang đều có những bàn thờ nhỏ cùng các bệ thờ và tượng thánh làm bằng đá trắng khá tinh xảo...

Đứng từ bàn thờ chính của nhà thờ nhìn về phía trên cửa chính, sẽ thấy một “gác đàn”, nơi đặt cây đàn organ ống, một trong hai cây đàn cổ nhất hiện nay ở nước ta. Đàn này được các chuyên gia nước ngoài làm bằng tay, khi đàn, âm thanh phát ra đủ cho cả nhà thờ nghe thấy, không nhỏ mà cũng không ồn. Ước lượng phần thân đàn cao 3m, rộng 4m, dài khoảng 2m, chứa những ống hơi bằng nhôm, đường kính khoảng một tấc.

Phía trước nhà thờ là bức tượng Đức mẹ Hoà Bình bằng đá cẩm thạch trắng của Ý. Tượng Đức mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, phía trên có đính cây thánh giá, mắt Đức mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu nguyện cho Việt Nam và cho thế giới được hoà bình. Trên bệ đá, phía trước bức tượng người ta gắn một tấm bảng đồng với hàng La ngữ: REGINA PACIS - OPRA PRONOBIS - XVII. II. MCMLIX (NỮ VƯƠNG HOÀ BÌNH - CẦU CHO CHÚNG TÔI - 17/02/1959). Một chi tiết mà hiện nay rất ít người biết, kể cả các linh mục của nhà thờ này. Đó là khi dựng bức tượng, người ta đã đục một cái hốc ở trên bệ đá chỗ giáp với chân tượng Đức mẹ, và đặt vào trong cái hốc đó một chiếc hộp bằng bạc. Trong chiếc hộp đựng rất nhiều những lời kinh cầu nguyện cho hoà bình của Việt Nam và thế giới được viết lên trên những lá vàng, bạc, thiếc, nhôm, giấy, da, và đồng. Những lời cầu nguyện này được gửi tới từ nhiều miền của đất nước.



 
Tồn tại hơn một thế kỷ, với vẻ đẹp trang nghiêm, cổ kính, nhà thờ Đức Bà là một công trình kiến trúc mang tính lịch sử và nghệ thuật cao, tạo dấu ấn sâu đậm trong lòng người dân Thành phố cũng như du khách trong và ngoài nước. Đây cũng là một điểm tham quan thú vị mà bất kỳ ai đến TP. Hồ Chí Minh cũng muốn ghé thăm.

Toàn bộ chiều dài thánh đường là 93 m. Chiều ngang nơi rộng nhất là 35 m. Chiều cao của vòm mái thánh đường là 21 m. Sức chứa của thánh đường có thể đạt tới 1.200 người. Nội thất thánh đường có hai hàng cột chính hình chữ nhật. Ngay sau hàng cột chính là một hành lang và kế đó là nhiều nhà nguyện với những bàn thờ nhỏ cùng các bệ thờ. Vào ban ngày, với thiết kế phối sáng hài hòa, thánh đường mang một cảm giác an lành và thánh thiện. Vào ban đêm, thánh đường được chiếu sáng bằng điện.


Mặt trước thánh đường là một công viên với bốn con đường giao nhau. Trung tâm của công viên là bức tượng “Đức Mẹ hòa bình” do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện năm 1959. Bức tượng cao 4,6 m, nặng 8 tấn, bằng đá cẩm thạch trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên không đánh bóng. Tượng Đức Mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu nguyện cho thế giới được hoà bình.

Nhà thờ Đức Bà như một cái gạch nối nhẹ nhàng giữa cuộc sống đô thị và đời sống tâm linh. Các cặp vợ chồng mới cưới có thể chụp ảnh bên nhà thờ ở nhiều góc độ với những hoạ tiết kiến trúc đẹp. Cuộc sống diễn ra thường ngày rất tự nhiên. Sáng sớm là hình ảnh đàn chim bồ cầu dưới nắng, chiều tà là lúc phụ huynh đón con giờ tan học bên đường, tối đến có thể bắt gặp người mua thiệp đem đi tặng cho nhau một niềm vui.

Mặc dù nhà thờ Đức Bà đã trải qua trên trăm năm tuổi nhưng ngày nay nó vẫn tồn tại như một di tích sống minh chứng cho sự tư do tín ngưỡng của đất nước. Khách tham quan nước ngoài và trong nước không thể không đến nơi đây, đặc biệt là vào đêm Noel khu vực nhà thờ và trung tâm thành phố biến thành một khu vực lễ hội tưng bừng.

 

Đồng Tháp: Chùa Kiến An Cung công trình nghệ thuật thú vị

KIẾN AN CUNG, TỤC GỌI LÀ CHÙA ÔNG QUÁCH, LÀ MỘT NGÔI ĐỀN TỌA LẠC TẠI TRUNG TÂM THÀNH PHỐ SA ĐÉC, ĐỐI DIỆN VỚI CON RẠCH CÁI SƠN. ĐỀN ĐƯỢC XÂY TỪ NĂM 1924 ĐẾN NĂM 1927 BỞI NHỮNG NGƯỜI HOA TỪ PHÚC KIẾN. 

 

 
Chùa mang đậm nét kiến trúc Trung Quốc, với tổng thể là hình chữ Công (工) gồm ba gian: Đông lang, Tây lang và khu chính điện thì rộng hơn. Mái ngói gồm 3 lớp, mặt trên ngói, giữa gạch, dưới là ngói. Ngói được lợp theo gợn sóng rồng, trải nền cho những ngọn sóng cong vút lên cao, tạo mái ngói theo kiểu "ngũ hành". Mỗi đầu ngọn sóng là một cung điện thu nhỏ, bao gồm có 6 cung điện. Toàn bộ chùa không có kèo, chỉ có đòn tay ráp mộng lại chịu lực trên những cột gỗ tròn. Trên những bức tường của chùa là những hình ảnh trong Tây du kí, Tam Quốc Diễn Nghĩa,... Phía cổng vào là hai con Kì Lân bằng đá xanh rất lớn, phía trên là tấm hoành phi sơn son thếp vàng lộng lẫy.

Chùa Kiến An Cung hay còn gọi là chùa Ông Quách tọa lạc tại  trung tâm thị xã Sa Đéc. Đây là công trình văn hoá đã được công nhận là di tích lịch sử quốc gia năm 1990. Chùa khởi công xây dựng từ năm Giáp Tý (1924) khánh thành năm Đinh Mậu (1927) do nhóm nguời Hoa ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) định cư tại Sa Đéc xây dựng để thờ cúng tổ tiên và dạy dỗ con cháu.
 


 
Đến với di tích này, bạn sẽ được chiêm ngưỡng một lối kiến trúc độc đáo, lộng lẫy và trang trọng. Chùa được xây theo kiểu chữ “Công” uy nghi, bề thế, gồm 3 gian, trong đó gian giữa rộng nhất là điện thờ. Toàn bộ chùa không có kèo, chỉ có đòn tay ráp mộng lại chịu lực trên những cột gỗ tròn làm trụ.  Mái ngói được làm rất công phu, gồm 3 lớp : mặt trên là ngói, mặt giữa là gạch, cuối cùng là ngói.

Trước cửa chánh điện có hai con kỳ lân bằng đá xanh to lớn, miệng ngậm trái châu, chạm khắc tinh xảo. Hai bên tả, hữu là 2 vị thần Thiện – Ác. Bước vào bên trong là sân lộ thiên nhỏ để dành làm chỗ cúng tế theo cổ tục. Những cột lớn trong chánh điện, các tấm hoành phi, bao lam, đối liễn đều được chạm trổ hoa lá, chim muông lộng lẫy, tôn nghiêm. Chánh điện chùa thờ Quan Công (Quan Vân Trường), Ngọc Hoàng Thượng Đế. Phía trong chánh tẩm là bệ thờ ngài Quảng Trạch (Ông Quách). Hằng năm chùa có 2 ngày lễ tế : ngày 22/2 và ngày 22/8 âm lịch. Mỗi 3 năm có thiết lập trai đàn, cúng cầu siêu cho bá tánh quá vãng và cầu cho quốc thới dân an.

Trăm nghe không bằng một thấy, nếu có dịp về Đồng Tháp, mời bạn đến viếng chùa Kiến An Cung để tận mắt chiêm ngưỡng một công trình kiến trúc độc đáo, một nghệ thuật chạm khắc tinh vi.
Từ khi xây dựng đến nay, chùa đã được trùng tu ba lần nhưng vẫn nằm tại vị trí cũ. Mỗi năm chùa có hai lễ hội lớn vào ngày 22-2 Âm lịch và 22-8 Âm lịch đón tiếp nhiều khách thập phương.
Với lối kiến trúc mang đậm phong cách Trung Hoa, với một nền văn hóa truyền thống đặc sắc, Kiến An Cung đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia vào ngày 27-4-1990.

 

Yên Bái - Vẻ đẹp hoang sơ của thác Kiên Thành

TỪ TRUNG TÂM XàKIÊN THÀNH (TRẤN YÊN) ĐI KHOẢNG 3KM VỀ BẢN ĐỒNG RUỘNG, TRƯỚC MẮT DU KHÁCH SẼ HIỆN RA DÒNG THÁC ÀO ÀO TỪ TRÊN CAO ĐỔ XUỐNG VỚI NHỮNG BỌT NƯỚC TRẮNG XÓA. VẺ ĐẸP TỰ NHIÊN NƠI ĐÂY LÀM RUNG ĐỘNG HÀNG TRIỆU CON TIM DU KHÁCH.

Được bắt nguồn từ các con suối trên các cánh rừng đầu nguồn từ bản Đồng Ruộng đổ về, thác có độ cao cột nước khoảng trên 30m. Nằm giữa hai vách núi đá cao thẳng đứng, thác Kiên Thành tựa như một bức tranh thủy mặc giữa núi rừng hoang sơ.

 
 
 

Những ngày nắng nóng, có hàng trăm lượt du khách từ khắp nơi đổ về thăm quan và trầm mình xuống dòng nước trong xanh, mát lạnh. Vào những ngày nắng đẹp, nhìn từ dưới lên đỉnh thác, hơi nước lấp lửng khiến thác như được bao bọc bởi một chiếc khăn voan trắng.

Khu vực chân thác, khí hậu trong lành, mát mẻ, lý tưởng cho những chuyến dã ngoại trong ngày, nước chảy êm đềm trên những mảng rong xanh sẽ để lại ấn tượng cho ai đã từng đến đây và thả hồn theo dòng nước.
 
Thác Kiên Thành là một địa chỉ hấp dẫn cho những ai yêu thiên nhiên hoang dã và muốn tìm hiểu về đất và người Kiên Thành.