Thứ Hai, 28 tháng 10, 2013

Nét uy nghiêm cổ kính của nhà thờ Đức Bà

Nhà thờ Đức Bà, từ lâu đã trở thành niềm tự hào của người dân TP. Hồ Chí Minh với kiểu kiến trúc đồ sộ và đẹp, được mô phỏng theo nhà thờ Notre Dame của Paris. Với chiều dài 93m, rộng 35,90m, cao 57m, nhà thờ Đức Bà vừa cổ kính vừa nguy nga tráng lệ.

Về mặt kiến trúc, tất cả các đường nét, gờ chỉ, hoa văn của nhà thờ Đức Bà đều tuân thủ theo kiểu kiến trúc Roman và Gothic. Các cột chịu lực chính được xây bằng các tảng đá lớn; các ô cửa hoa, khung cửa... được xây bằng đá phấn màu trắng (một loại đá rất mềm dùng trang trí cho tường gạch hồng).




 
Đặc biệt, nhà thờ Đức Bà có một bộ chuông lớn gồm 6 quả, chế tạo tại Pháp, và được kiến trúc sư Bourard đưa sang Sài Gòn vào tháng 5/1879. Bộ chuông nặng khoảng 30 tấn (kể cả hệ thống đối trọng), tên gọi được đặt theo các nốt nhạc sol, la, si, đô, rê, mi. Khi xây nhà thờ, gác chuông không có mái. Năm 1885, kiến trúc sư Gardes đã thêm mái chóp vào để che gác chuông với tổng chiều cao tính từ đất là 57m. Những chiếc chuông của nhà thờ được điều khiển bằng điện từ bên dưới. Song riêng ba chiếc chuông lớn trước khi đánh đều được khởi động bằng cách đạp (vì quá nặng) cho lắc trước khi bật rơ-le điện. Khi đổ cùng lúc sáu chuông, tiếng chuông vang xa trong phạm vi chừng 10km.

Điều đặc biệt nữa là trong nhà thờ Đức Bà không có chỗ cho nến. Toàn bộ đèn - có từ khi nhà thờ xây dựng xong - đều dùng điện. Nhà thờ khá rộng, có sức chứa tới 1.200 người. Bên trong có hai hàng cột chính hình chữ nhật mỗi bên sáu chiếc tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ. Ngay sau hàng cột chính là một hành lang được chia thành nhiều khoang; mỗi khoang đều có những bàn thờ nhỏ cùng các bệ thờ và tượng thánh làm bằng đá trắng khá tinh xảo...

Đứng từ bàn thờ chính của nhà thờ nhìn về phía trên cửa chính, sẽ thấy một “gác đàn”, nơi đặt cây đàn organ ống, một trong hai cây đàn cổ nhất hiện nay ở nước ta. Đàn này được các chuyên gia nước ngoài làm bằng tay, khi đàn, âm thanh phát ra đủ cho cả nhà thờ nghe thấy, không nhỏ mà cũng không ồn. Ước lượng phần thân đàn cao 3m, rộng 4m, dài khoảng 2m, chứa những ống hơi bằng nhôm, đường kính khoảng một tấc.

Phía trước nhà thờ là bức tượng Đức mẹ Hoà Bình bằng đá cẩm thạch trắng của Ý. Tượng Đức mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, phía trên có đính cây thánh giá, mắt Đức mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu nguyện cho Việt Nam và cho thế giới được hoà bình. Trên bệ đá, phía trước bức tượng người ta gắn một tấm bảng đồng với hàng La ngữ: REGINA PACIS - OPRA PRONOBIS - XVII. II. MCMLIX (NỮ VƯƠNG HOÀ BÌNH - CẦU CHO CHÚNG TÔI - 17/02/1959). Một chi tiết mà hiện nay rất ít người biết, kể cả các linh mục của nhà thờ này. Đó là khi dựng bức tượng, người ta đã đục một cái hốc ở trên bệ đá chỗ giáp với chân tượng Đức mẹ, và đặt vào trong cái hốc đó một chiếc hộp bằng bạc. Trong chiếc hộp đựng rất nhiều những lời kinh cầu nguyện cho hoà bình của Việt Nam và thế giới được viết lên trên những lá vàng, bạc, thiếc, nhôm, giấy, da, và đồng. Những lời cầu nguyện này được gửi tới từ nhiều miền của đất nước.




 
Tồn tại hơn một thế kỷ, với vẻ đẹp trang nghiêm, cổ kính, nhà thờ Đức Bà là một công trình kiến trúc mang tính lịch sử và nghệ thuật cao, tạo dấu ấn sâu đậm trong lòng người dân Thành phố cũng như du khách trong và ngoài nước. Đây cũng là một điểm tham quan thú vị mà bất kỳ ai đến TP. Hồ Chí Minh cũng muốn ghé thăm.

Toàn bộ chiều dài thánh đường là 93 m. Chiều ngang nơi rộng nhất là 35 m. Chiều cao của vòm mái thánh đường là 21 m. Sức chứa của thánh đường có thể đạt tới 1.200 người. Nội thất thánh đường có hai hàng cột chính hình chữ nhật. Ngay sau hàng cột chính là một hành lang và kế đó là nhiều nhà nguyện với những bàn thờ nhỏ cùng các bệ thờ. Vào ban ngày, với thiết kế phối sáng hài hòa, thánh đường mang một cảm giác an lành và thánh thiện. Vào ban đêm, thánh đường được chiếu sáng bằng điện.


Mặt trước thánh đường là một công viên với bốn con đường giao nhau. Trung tâm của công viên là bức tượng “Đức Mẹ hòa bình” do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện năm 1959. Bức tượng cao 4,6 m, nặng 8 tấn, bằng đá cẩm thạch trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên không đánh bóng. Tượng Đức Mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu nguyện cho thế giới được hoà bình.

Nhà thờ Đức Bà như một cái gạch nối nhẹ nhàng giữa cuộc sống đô thị và đời sống tâm linh. Các cặp vợ chồng mới cưới có thể chụp ảnh bên nhà thờ ở nhiều góc độ với những hoạ tiết kiến trúc đẹp. Cuộc sống diễn ra thường ngày rất tự nhiên. Sáng sớm là hình ảnh đàn chim bồ cầu dưới nắng, chiều tà là lúc phụ huynh đón con giờ tan học bên đường, tối đến có thể bắt gặp người mua thiệp đem đi tặng cho nhau một niềm vui.

Mặc dù nhà thờ Đức Bà đã trải qua trên trăm năm tuổi nhưng ngày nay nó vẫn tồn tại như một di tích sống minh chứng cho sự tư do tín ngưỡng của đất nước. Khách tham quan nước ngoài và trong nước không thể không đến nơi đây, đặc biệt là vào đêm Noel khu vực nhà thờ và trung tâm thành phố biến thành một khu vực lễ hội tưng bừng.

Đồng Tháp: Chùa Kiến An Cung công trình nghệ thuật thú vị

Kiến An Cung, tục gọi là chùa ông Quách, là một ngôi đền tọa lạc tại trung tâm thành phố Sa Đéc, đối diện với con rạch Cái Sơn. Đền được xây từ năm 1924 đến năm 1927 bởi những người Hoa từ Phúc Kiến. 



 
Chùa mang đậm nét kiến trúc Trung Quốc, với tổng thể là hình chữ Công (工) gồm ba gian: Đông lang, Tây lang và khu chính điện thì rộng hơn. Mái ngói gồm 3 lớp, mặt trên ngói, giữa gạch, dưới là ngói. Ngói được lợp theo gợn sóng rồng, trải nền cho những ngọn sóng cong vút lên cao, tạo mái ngói theo kiểu "ngũ hành". Mỗi đầu ngọn sóng là một cung điện thu nhỏ, bao gồm có 6 cung điện. Toàn bộ chùa không có kèo, chỉ có đòn tay ráp mộng lại chịu lực trên những cột gỗ tròn. Trên những bức tường của chùa là những hình ảnh trong Tây du kí, Tam Quốc Diễn Nghĩa,... Phía cổng vào là hai con Kì Lân bằng đá xanh rất lớn, phía trên là tấm hoành phi sơn son thếp vàng lộng lẫy.

Chùa Kiến An Cung hay còn gọi là chùa Ông Quách tọa lạc tại  trung tâm thị xã Sa Đéc. Đây là công trình văn hoá đã được công nhận là di tích lịch sử quốc gia năm 1990. Chùa khởi công xây dựng từ năm Giáp Tý (1924) khánh thành năm Đinh Mậu (1927) do nhóm nguời Hoa ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) định cư tại Sa Đéc xây dựng để thờ cúng tổ tiên và dạy dỗ con cháu.




 
Đến với di tích này, bạn sẽ được chiêm ngưỡng một lối kiến trúc độc đáo, lộng lẫy và trang trọng. Chùa được xây theo kiểu chữ “Công” uy nghi, bề thế, gồm 3 gian, trong đó gian giữa rộng nhất là điện thờ. Toàn bộ chùa không có kèo, chỉ có đòn tay ráp mộng lại chịu lực trên những cột gỗ tròn làm trụ.  Mái ngói được làm rất công phu, gồm 3 lớp : mặt trên là ngói, mặt giữa là gạch, cuối cùng là ngói.

Trước cửa chánh điện có hai con kỳ lân bằng đá xanh to lớn, miệng ngậm trái châu, chạm khắc tinh xảo. Hai bên tả, hữu là 2 vị thần Thiện – Ác. Bước vào bên trong là sân lộ thiên nhỏ để dành làm chỗ cúng tế theo cổ tục. Những cột lớn trong chánh điện, các tấm hoành phi, bao lam, đối liễn đều được chạm trổ hoa lá, chim muông lộng lẫy, tôn nghiêm. Chánh điện chùa thờ Quan Công (Quan Vân Trường), Ngọc Hoàng Thượng Đế. Phía trong chánh tẩm là bệ thờ ngài Quảng Trạch (Ông Quách). Hằng năm chùa có 2 ngày lễ tế : ngày 22/2 và ngày 22/8 âm lịch. Mỗi 3 năm có thiết lập trai đàn, cúng cầu siêu cho bá tánh quá vãng và cầu cho quốc thới dân an.

Trăm nghe không bằng một thấy, nếu có dịp về Đồng Tháp, mời bạn đến viếng chùa Kiến An Cung để tận mắt chiêm ngưỡng một công trình kiến trúc độc đáo, một nghệ thuật chạm khắc tinh vi.
Từ khi xây dựng đến nay, chùa đã được trùng tu ba lần nhưng vẫn nằm tại vị trí cũ. Mỗi năm chùa có hai lễ hội lớn vào ngày 22-2 Âm lịch và 22-8 Âm lịch đón tiếp nhiều khách thập phương.
Với lối kiến trúc mang đậm phong cách Trung Hoa, với một nền văn hóa truyền thống đặc sắc, Kiến An Cung đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia vào ngày 27-4-1990.

Yên Bái - Vẻ đẹp hoang sơ của thác Kiên Thành

Từ trung tâm xã Kiên Thành (Trấn Yên) đi khoảng 3km về bản Đồng Ruộng, trước mắt du khách sẽ hiện ra dòng thác ào ào từ trên cao đổ xuống với những bọt nước trắng xóa. Vẻ đẹp tự nhiên nơi đây làm rung động hàng triệu con tim du khách.

Được bắt nguồn từ các con suối trên các cánh rừng đầu nguồn từ bản Đồng Ruộng đổ về, thác có độ cao cột nước khoảng trên 30m. Nằm giữa hai vách núi đá cao thẳng đứng, thác Kiên Thành tựa như một bức tranh thủy mặc giữa núi rừng hoang sơ.

 


Những ngày nắng nóng, có hàng trăm lượt du khách từ khắp nơi đổ về thăm quan và trầm mình xuống dòng nước trong xanh, mát lạnh. Vào những ngày nắng đẹp, nhìn từ dưới lên đỉnh thác, hơi nước lấp lửng khiến thác như được bao bọc bởi một chiếc khăn voan trắng.

Khu vực chân thác, khí hậu trong lành, mát mẻ, lý tưởng cho những chuyến dã ngoại trong ngày, nước chảy êm đềm trên những mảng rong xanh sẽ để lại ấn tượng cho ai đã từng đến đây và thả hồn theo dòng nước.
Thác Kiên Thành là một địa chỉ hấp dẫn cho những ai yêu thiên nhiên hoang dã và muốn tìm hiểu về đất và người Kiên Thành.

Tây Yên Tử - Điểm đến hấp dẫn cần khám phá

Nằm trong Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử, cách Hà Nội khoảng 150 Km về phía đông bắc, rừng nguyên sinh Khe Rỗ thuộc xã An Lạc, huyện Sơn Động là khu rừng nguyên sinh tiêu biểu của cả vùng Đông Bắc Việt Nam. Khu rừng cấm có diện tích 7.153ha, trong đó diện tích rừng tự nhiên là 5.092 ha với hệ thống động, thực vật phong phú.

Dấu ấn vua Trần

Từ ngã tư Đông Triều – Quảng Ninh chúng tôi rẽ vào con đường bê tông bên trái chạy thẳng tắp đến tận chân núi. Giữa cảnh đất trời bao la, đập Trại Lốc hiện ra mênh mông phẳng lặng. Bóng người buông câu đang ngồi lặng im đợi tăm cá giữa cảnh sắc sơn thủy hữu tình.


 

Vùng đất này chính là nơi an nghỉ của tám vị đế vương triều Trần. Ngay giữa đập Trại Lốc là khu lăng mộ của Trần Minh Tông và Trần Anh Tông (tức Mục Lăng và Đồng Thái Lăng). Lăng mộ của các vị vua Trần ở đây đều mới được chính quyền xây dựng lại và bị ngập nước. Để ra viếng lăng khách phải thuê thuyền của những ngư dân gần đó.

Cũng trên con đường chạy thẳng về phía chân núi cả đoàn đã có phút dừng chân bên lăng của vua Trần Hiến Tông. Người dân địa phương cho biết, trong tám vị vua Trần có lăng mộ ở An Sinh thì chỉ có vua Hiến Tông là được an nghỉ trong quần thể hoành tráng đầy đủ nhất. Khu vườn tượng quanh lăng đã khắc họa nên phần nào vẻ đẹp điêu khắc và những giá trị văn hóa đặc trưng của vương triều Trần cách đây bảy, tám thế kỷ.

Tạm biệt những lăng mộ vua Trần dưới chân núi chúng tôi lại lên đường tìm đến am Ngọa Vân, nơi sử sách ghi chép rằng chính là chỗ Phật Hoàng Trần Nhân Tông viên tịch.Đường lên am Ngọa Vân còn khá xấu, có những lúc xe của chúng tôi đã thực sự phải đầu hàng. Gửi xe bên đường xong, mọi người đi bộ thêm vài cây số mới thấy thấp thoáng bóng tượng Phật hiện ra trên đỉnh núi.



Am Ngọa Vân bình dị với những mộ tháp rêu phong hiện ra trong tiếng mõ chiều. Không còn thời gian để quay xuống, cả nhóm quyết định ở lại trong am xin bữa cơm chay để ngày mai tiếp tục một hành trình mới.

Vẻ đẹp núi rừng

Nếu khung cảnh phía đường bên Đông Triều làm người ta như lạc vào chốn xưa thanh tịnh thì hành trình sườn núi phía Lục Nam, Sơn Động – Bắc Giang lại cho du khách những cảm giác rất khác biệt. Trên đỉnh núi Phật Sơn nơi có am Ngọa Vân, từ xa xa chúng tôi đã thấy những thảm cỏ xanh tươi và tiếng suối chảy róc rách.

 

Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử chào đón chúng tôi vào đúng lúc cơn mưa rào xuất hiện. Nhưng thật lạ lùng, mưa chỉ mươi, mười lăm phút rồi ánh nắng chói lọi lại chiếm ngự bầu trời.Mọi người lại cùng nhau đi tìm thắng cảnh suối Nước Vàng và thác Giót. Một lần nữa đoàn xe máy phải ì ạch vượt qua những con suối cạn đá lởm chởm, men theo những con đường đất đỏ lầy lội sau cơn mưa rừng.

Rồi bỗng nhiên mọi người hò reo vì trước mắt đã dần hiện ra một dòng nước có màu vàng óng như mật ong. Không tin vào mắt mình, ai nấy lội xuống suối thì quả thực nước có màu vàng trong như mật ong chứ không phải bị đục do bùn đất. Men theo dòng suối vàng chảy từ đỉnh Phật Sơn xuống, chẳng mấy chốc chúng tôi đến thác Giót.

Từ trên cao vút, những tia nước ào ào đổ xuống trắng xóa làm cho cảnh vật núi rừng xanh thẳm vắng lặng được tô thêm màu và thêm cả âm thanh. Chẳng còn ngần ngại gì nữa, du khách đã tới được đây đều hòa mình vào dòng nước trong xanh, mát rượi để tự thưởng cho mình sau một hành trình vất vả nhưng nhiều điều thú vị.

Do đặc trưng địa hình núi cao, khí hậu trong lành, mát mẻ của khu rừng nguyên sinh, những suối nước trong mát, thích hợp cho những chuyến picnic, leo núi khám phá khu rừng nguyên sinh. Đặc biệt, trong Khe Rỗ có 2 con suối lớn và rất đẹp. Một là suối nước Vàng quanh năm như mật ong, những viên đá nổi lên đủ màu sắc, kích cỡ; một là Khe Đin chảy dài với những đoạn thác cao đến 3, 4 tầng mỗi tầng khoảng 30-40m. Nơi những thác nước đổ xuống là những vũng nước trong vắt nhìn thấu đáy như: vũng tròn, vũng soong...thích hợp cho bơi lội hay tắm mát.

Đến với Khu bảo tồn Tây Yên Tử là về với thiên nhiên, hòa mình trong bầu không khí trong lành và cảm nhận từng nhịp sống vừa nguyên sinh nhưng cũng rất thú vị và bí ẩn. Đến nơi đây không thể không thể bỏ qua khu Rừng nguyên sinh Khe Rỗ giàu giá trị thiên nhiên. Những phút giây thư thái, những cảm giác sảng khoái sẽ mang chúng ta về gần với thiên nhiên hơn, và chỉ khi đó cảm nhận về thiên nhiên mới chân thật và thuần túy.

Ngoài Khe Rỗ, Sơn Động còn có khu du lịch sinh thái Đồng Thông thuộc tuyến du lịch Tây Yên Tử - một tuyến du lịch trọng điểm đang được tỉnh Bắc Giang tập trung quy hoạch và xây dựng. Khu du lịch Đồng Thông cũng là nơi bảo tồn  nhiều loài động vật quý hiếm, ngoài ra, đây còn là điểm dừng chân cho du khách trước khi chinh phục đỉnh Phù Vân Yên Tử từ phía Tây.

Để đánh thức tiềm năng to lớn mà thiên nhiên ban tặng, hiện nay UBND tỉnh Bắc Giang đã phê duyệt dự án đầu tư trên 2.700 tỷ đồng cho việc cải tạo, nâng cấp và làm mới hệ thống giao thông từ thành phố Bắc Giang đấu nối với tỉnh lộ 293 đi qua huyện Yên Dũng, huyện Lục Nam&nbsp và Sơn Động đây là điều kiện thuận lợi mở ra cho Bắc Giang phát triển mạnh du lịch văn hóa tâm linh và sinh thái tuyến Tây Yên Tử.

Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013

Đến và trải nghiệm với làng nghề Hà Nội

(Mytour.vn) - Hơn đâu hết đất Thăng Long xưa - Hà Nội nay là nơi tập trung đông đảo các làng nghề truyền thống. Sự phát triển của làng nghề không chỉ có vai trò nâng cao mức sống mà còn là dấu ấn truyền thống văn hóa dân tộc tại mỗi thời kỳ. Đến với mỗi làng nghề Hà Nội, du khách sẽ tìm thấy những giá trị văn hóa truyền thống ẩn chứa trong cảnh quan quen thuộc của vùng đồng bằng Bắc Bộ:

Nơi ấy còn có những nghệ nhân giỏi, được coi là "bảo tàng sống" của mỗi làng, nghe họ kể về quá trình hình thành, phát triển nghề, kinh nghiệm của những người đi trước truyền lại và được tận mắt chứng kiến những đôi bàn tay "vàng" điêu luyện tạo ra những sản phẩm mang đặc trưng của mỗi làng nghề.

 


Hướng dẫn viên chính là những người thợ của làng, sẽ đem đến cho du khách giây phút thú vị qua lời giới thiệu mộc mạc nhưng rất có chiều sâu…Có thể nêu ra rất nhiều làng nghề như thế. Chẳng hạn, nếu chọn đi từ trung tâm Hà Nội, dọc theo Quốc lộ 1A khoảng 20km về hướng Nam, du khách đến với làng thêu Quất Động, làng may Thạch Xá; làng Duyên Thái, Chuyên Mỹ chuyên về nghề sơn mài, khảm trai; Làng Nhân Hiền giỏi nghề điêu khắc đá. Rồi làng Vác làm quạt giấy, lồng chim; Làng Chuông làm nón, làng mây tre đan Phú Vinh với hàng mây xiên được mệnh danh là đỉnh cao của nghệ thuật đan lát Việt Nam; Làng giò chả Ước Lễ; Làng bún Liên Bạt… Các làng nghề liền kề, nối nhau san sát, có khi chỉ cách nhau một cánh đồng lúa hoặc một dòng sông…

Và trải nghiệm

Điều thú vị nhất đối với du khách trong các tour du lịch tại các làng nghề Hà Nội là được trải nghiệm cuộc sống nơi đây. Chẳng hạn đến với làng gốm sứ Bát Tràng, du khách sẽ cảm nhận được sự hòa quyện tuyệt vời giữa nước, lửa và tâm hồn người Việt. Với trên 2.000 lò gốm, Bát Tràng là niềm tự hào về một làng nghề gốm sứ truyền thống.

 


Thời gian trôi qua, sản phẩm của làng đã phát triển và trở nên nổi tiếng cả trong và ngoài nước với chất lượng, màu men, kiểu dáng mang nét đặc trưng của làng nghề cổ bên bờ sông Hồng. Tới tham quan làng gốm cổ Bát Tràng, du khách có thể đi bộ quanh làng hoặc đi trên những chiếc xe trâu kéo. Du khách cũng có thể tự tay nhào đất, nặn, tạo cho mình một sản phẩm nào đó tại khu xưởng của một gia đình làm nghề trong làng. Được chiêm ngưỡng bàn tay khéo léo của những người thợ thủ công tỷ mẩn vuốt từng chi tiết trên bàn xoay gốm, du khách còn được đến tham quan nhiều địa điểm đẹp và thú vị khác như: Đền Mẫu, thờ người con gái Bát Tràng được dân gian suy tôn với mỹ hiệu “Thành Mẫu Bản Dương”, bức tượng Cửu Long đẹp và cao quý…

Đến với làng lụa Vạn Phúc, du khách được nghe giai điệu quen thuộc của những tiếng thoi đưa dệt lụa. Dưới bàn tay tài hoa, khéo léo của những người thợ dệt làng Vạn Phúc dựa trên kỹ thuật truyền thống đã tạo nên nhiều sản phẩm vải lụa độc đáo như vân, sa, nhiễu, gấm, vóc… được khách hàng trong và người nước ưa chuộng.

Đến với Phú Vinh, một làng quê nổi tiếng bao đời với nghề đan lát. Du khách có thể bắt gặp cảnh người già, con trẻ say sưa bên những sản phẩm mây tre đan và luôn nở nụ cười thân thiện đón chào du khách.

Du lịch làng nghề Hà Nội là vậy, song với nhiều người ưa thích sự khám phá, những làng nghề chưa bị các công ty du lịch khai thác triệt để thường là điểm đến lý tưởng. Trước những nét đẹp đơn sơ, những giá trị văn hóa còn nguyên hình, nguyên trạng, mỗi người sẽ có những cảm nhận riêng, những khám riêng cho chính bản thân mình sau mỗi chuyến đi…

 

Đã từng có thời Hà Nội có Hàng Khảm

(Mytour.vn) - Theo những nghiên cứu và sử sách để lại thì được biết ngày xưa Hà Nội có tên phố là phố Hàng Khảm. Theo một công trình nghiên cứu của Giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương André Masson, vào khoảng năm 1820, Hà Nội đã có tên phố Hàng Khảm (Rue des Incrusteurs), tại đó có nhiều nhà vừa sản xuất vừa bán hàng khảm xà cừ, khảm trai…

Khu phố cổ Hà Nội là tên gọi thông thường của một khu vực đô thị có từ lâu đời của Hà Nội nằm ở ngoài hoàng thành Thăng Long. Khu đô thị này tập trung dân cư hoạt động tiểu thủ công nghiệp và buôn bán giao thương, hình thành lên những phố nghề đặc trưng, mang những nét truyền thống riêng biệt của cư dân thành thị, kinh đô. Ngày nay khu phố cổ Hà Nội là điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn du lịch khám phá về Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.

Đầu năm 1885, phố Hàng Khảm trở thành một phố được trải đá dăm khá tốt, rộng từ 16 mét đến 18 mét, các cửa hàng hầu như của người châu Âu. 

Từ khi thực dân Pháp đắp lại con đường nối từ Đồn Thủy (cửa khu Nhượng địa) tới Cửa Nam thành cổ, thành một con đường rải đá, đổ nhựa, dài chừng 1,5km, và họ gọi đường này là phố Hàng Khảm. Nghĩa là, phố Hàng Khảm khi ấy có chiều dài bao gồm phố Tràng Tiền, phố Hàng Khay và phố Tràng Thi ngày nay. Theo công trình nghiên cứu của Giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương André Masson, vào khoảng năm 1820, Hà Nội đã có tên phố Hàng Khảm (Rue des Incrusteurs). Họ đặt tên phố như vậy bởi quãng từ gần trường đúc tiền (thuộc phố Tràng Tiền ngày nay) đến giáp trường thi Hương của Hà Nội (nay thuộc phố Tràng Thi) có nhiều nhà vừa sản xuất vừa bán hàng khảm xà cừ, khảm trai như sập gụ, tủ chè, bàn ghế, tráp, cơi trầu, khay trà... Tuy nhiên, các hàng khảm đều nằm chủ yếu ở đoạn mé nam hồ Hoàn Kiếm.

 


Lùi ngược vài thế kỷ thì thấy, trên đất Thăng Long đã có nhiều thợ thủ công khéo tay; lại có những thợ thủ công gốc Nam Định lên Kinh kỳ lập nghiệp trải qua nhiều đời; đặc biệt, có những thợ thủ công mỹ nghệ rất giỏi nghề khảm trai gốc làng Chuyên Mỹ, Phú Xuyên, trấn Sơn Nam, lên hành nghề ở Thăng Long, rồi định cư ở đất này. Những thợ khảm trai và xà cừ gốc làng Chuyên Mỹ (tên Nôm là làng Chuôn) lên Thăng Long, sống tập trung tại làng Cựu Lâu và họ đã lập tại đây đền thờ Nguyễn Kim - Tổ nghề khảm trai Chuyên Mỹ. Làng Cựu Lâu ở vị trí thuộc khu vực phố Tràng Tiền, Hàng Khay ngày nay. Trải nhiều thời gian hành nghề trên đất Thăng Long - Hà Nội, đến thế kỷ XIX, kỹ nghệ chạm khảm có bước phát triển mạnh khi người Pháp đặt chân tới đất này. Các thợ thủ công đã có sự cạnh tranh khi nền kinh tế hàng hóa đã hình thành tại Hà Nội, khiến nhịp độ phát triển của nghề này càng nhanh. Và tất yếu, một phố nghề chính thức được ra đời, đó là phố Hàng Khảm.

Thời mới lập phố Hàng Khảm, đầu phố là Đồn Thủy, một đồn binh lớn, cuối phố, chỗ Cửa Nam thành Hà Nội, cũng có một trại lính Pháp, chỉ một quãng (tương đương Tràng Tiền - Hàng Khay ngày nay) là có nhà ở và cửa hiệu. Quãng phố này có một cổng lớn mở từ làng Cựu Lâu ra, nên gọi là cổng Cựu Lâu. Cổng này có hai trụ xây khá lớn, trên mỗi trụ có một con sư tử đá, tạo tác đơn giản nhưng oai nghiêm. Phố Hàng Khảm lúc ban đầu như A.Masson mô tả là “một con đường rộng chưa tới 3m đầy những hố nước tù đọng”. Và cũng theo A. Masson, chỉ một năm sau đã trở thành “một con đường rất rộng, chỉ còn thiếu những ngôi nhà kiểu châu Âu. Hai bên phố là những ngôi nhà lá. Hai, ba cửa hiệu của người Tàu, rất sạch và lịch sự, nằm đầu dãy các cửa hàng...”. Chính thời gian mở rộng đường phố đã phải phá bỏ cổng Cựu Lâu. Năm 1885, Đốc lý Hà Nội là Halais cho lập quy hoạch vùng quanh Hồ Gươm với một tiến trình là đến hết năm 1886 phải dỡ tất cả nhà lá và làm thay vào đó những ngôi nhà xây gạch lợp ngói. Có một dấu vết khá thú vị còn sót lại đến đầu thế kỷ XXI là trên “trán” ngôi nhà số 3 Hàng Khay vẫn còn dòng chữ đắp nổi năm xây nhà - 1886. Tuy nhiên, vào chính năm 1886, Tổng trú sứ Paul Bert qua đời, chính quyền thực dân cho cắt một đoạn phố Hàng Khảm, từ cửa ô Tây Long (khu vực Nhà hát Lớn ngày nay) đến ngã tư Hàng Giò, Hàng Thêu (ngã tư Bà Triệu, Lê Thái Tổ ngày nay), đặt tên là phố Paul Bert. Năm 1900, trên tạp chí Revue Indochinoise, ông Dumoutier, một học giả người Pháp, đã mô tả: “Mặt phố Paul Bert đoạn áp hồ (Gươm) toàn là nhà các thợ khảm. Những ngôi nhà này hẹp và thấp, xây bằng gạch, lợp ngói. Mặt trước nhà nào cũng có mái che lợp lá, gian giữa trông ra hồ...”.

 


Có một điều rất lạ là, khi chính quyền thực dân đặt tên phố Paul Bert năm 1886, nhiều người dân Hà Nội đã gọi đoạn trên phố, nơi vốn có trường đúc tiền, là Tràng Tiền, đoạn tiếp đó là Hàng Khay. Và, phần còn lại của phố Hàng Khảm nhưng không có nhà nào làm và bán đồ khảm trai, xà cừ, thì người ta cứ gọi là Trường Thi vì đây vốn là khu vực tổ chức thi Hương ngày xưa, ít lâu sau thì gọi là phố Tràng Thi. Và dần dần tên phố Hàng Khảm cũng lu mờ trong đời sống. Cho đến năm 1945, Tràng Tiền, Hàng Khay, Tràng Thi trở thành tên chính thức của ba phố ấy, và phố Hàng Khảm lùi sâu vào ký ức của Thăng Long - Hà Nội...