Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013

Miền Tây - Nét văn hóa ẩm thực hấp dẫn

(Mytour.vn) - Mỗi nơi đều có những nét văn hóa đặc sắc riêng biệt, hầu hết sẽ không nét văn hóa ở đâu giống nhau cả và văn hóa ẩm thực ở Miền Tây sông nước cũng thế. Từ cách bày biện, cách chế biến món ăn đến những nét ăn uống, ngồi ăn đều khác biệt.

Ẩm thực là tiếng dùng khái quát nói về việc ăn và uống. Văn hóa ẩm thực bao gồm cả cách chế biến, bày biện và thưởng thức từng món ăn, thức uống, từ đơn giản, đạm bạc đến cầu kỳ mỹ vị. Chung nhất là vậy, song khi nói đến văn hóa ẩm thực ở một vùng/miền nào đó thì nhất thiết phải nói lên “đặc điểm tình hình” mới có thể nêu được bản sắc văn hóa đặc trưng cụ thể của vùng/miền ấy.

Ở Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng đâu đâu cũng đất rộng sông dài, nơi nào cũng kinh rạch chằng chịt lại lắm lung, hồ, búng, láng…, không nơi nào không nhung nhúc cá, tôm, rắn, cua, rùa, ếch… đã vậy còn có cả rừng già, rừng thưa, đầy dẫy chim muông, thú to, thú nhỏ. Phía này thì “năm non bảy núi” trập trùng, không biết cơ man nào là “sơn hào”, còn phía nọ thì biển Đông, biển Tây, toàn là “hải vị”!

 

 


Nhưng để có được một kho báu “trên cơm dưới cá”, người Nam Bộ nói chung và người miền Tây nói riêng không thể không năng động sáng tạo trong gieo trồng, đánh bắt và khai thác chế biến. Cho dù “làm chơi ăn thiệt” người miền Tây bao đời nay đã đầu tư không biết bao nhiêu là tim, là óc mới có được thành quả khả quan đầy trí tuệ như ngày hôm nay. Nhờ được kế thừa, phát huy và liên tiếp khám phá, sáng tạo mà văn hóa ẩm thực ở miền Tây ngày càng phong phú, đa dạng. Từ đó, miếng ăn và “thói ăn” của người miền Tây có những cái rất riêng. Nhưng cái riêng ấy không ngoài cái chung của dân tộc Việt Nam nghìn năm văn hiến.

Do đặc điểm địa hình và sinh hoạt kinh tế, văn hóa Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng đã định hình nền văn minh sông nước, ở đó nguồn lương thực – thực phẩm chính là lúa, cá và rau quả kể cả các loại rau đồng, rau rừng. Từ sự phong phú, dư dật ấy mà trải suốt quá trình khai hoang dựng nghiệp, món ăn, thức uống hàng ngày của người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng cho dù trong hoàn cảnh nào, thiếu thốn đạm bạc, hay đầy đủ ngỏa nguê, họ không thể không khám phá và sáng tạo nhiều phương thức nuôi trồng, đánh bắt để chế biến vô số miếng ngon một cách có bài bản từ những đặc sản của địa phương.

 

 


Với phong cách thưởng thức “mùa nào thức nấy” và quan niệm “ăn để mà sống” hầu có đủ dưỡng chất tái tạo sức lao động, họ đã tỏ ra rất sành điệu trong việc phối hợp các yêu cầu cao nhất của miếng ăn: thơm, ngon, bổ, khỏe. Câu nói “ăn được ngủ được là tiên” rất được người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng quan tâm, xem trọng, cho nên ngồi vào bàn ăn, khi chủ nhà giới thiệu món nào, dù là cá thịt hay rau quả, kể cả rượu, họ thường nhắc nói: ăn món này bổ xương, hoặc trị suy dinh dưỡng, bổ gan, bổ phổi…; rượu thuốc này giải quyết được bệnh “tê bại” nhức mỏi; tráng dương, bổ thận v.v… Và không quên “động viên” gắp đũa nằm, hoặc dùng muỗng múc (mới được nhiều), cứ tự nhiên, hãy ăn thiệt tình “đừng mắc cỡ”, thậm chí ép ăn! Dùng bữa, thấy khách ăn nhiều, ngon miệng chủ nhà không thể không cảm thấy sung sướng, hài lòng.

Khẩu vị của người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng cũng rất khác biệt: gì ra nấy! Mặn thì phải mặn quéo lưỡi (như nước mắm phải nguyên chất và nhiều, chấm mới “dính”; kho quẹt phải kho cho có cát tức có đóng váng muối); ăn cay thì phải gừng già, cũng không thể thiếu ớt, mà ớt thì chọn loại ớt cay xé, hít hà (cắn trái ớt, nhai mà môi không giựt giựt, lỗ tai không nghe kêu “cái rắc”, hoặc chưa chảy nước mắt thì dường như chưa… đã!), ngọt thì ngọt như chè….

Nói đến cay mà không đề cập và nghiên cứu khẩu vị của người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng khi ăn tiêu hột hoặc tiêu xay là cả một sự thiếu sót, bởi tiêu đâu chỉ là cay mà còn ngọt! Vì sao “Ví dầu cá lóc nấu canh/Bỏ tiêu cho ngọt bỏ hành cho thơm”? Phải hết sức tinh tế mới hiểu được trọn vẹn bản chất của tiêu. Thật vậy, nếu ta thử nghiệm: nêm hai tô canh (hoặc cá kho) vẫn với các thứ gia vị giống nhau nhưng nếu một trong hai tô canh không “bỏ tiêu” thì nhất định tô ấy sẽ thiếu chất ngọt ngay – cho dù đã có đường, bột ngọt, nhưng vẫn thấy không ngọt đặc biệt như tô có bỏ tiêu! Còn chua thì chua cho nhăn mặt mới “đã thèm”; ngọt (chè) thì phải ngọt ngây, ngọt gắt; béo thì béo ngậy; đắng thì phải đắng như mật (thậm chí ăn cả mật cá, cho là “ngọt”!); còn nóng thì phải “nóng hổi vừa thổi vừa ăn”…

Vì sao khẩu vị người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng lại “quyết liệt” như thế? Vấn đề đặt ra chẳng ai giải thích được tại sao ngoại trừ người miền Tây lớp trước hoặc những nhà nghiên cứu về văn hóa ẩm thực vùng đất này. Đó chẳng qua là dấu ấn sắc nét thời khai phá. Thuở ấy, con người ở đây một mặt phải ra sức khống chế thiên nhiên, thường xuyên đương đầu với nhiều loại thú dữ – nói chung là phải đối phó với vô vàn gian nan khổ khó, một mặt phải “tay làm hàm nhai”. Có được “ba hột” no lòng không ai không biết rằng “dẻo thơm một hột đắng cay muôn phần”, cho nên người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng không dám hoang phí làm rơi vãi hột cơm, hột gạo, mà đều xem đó như “hột ngọc”. Có cơm ăn thôi là đã mãn nguyện, dám đâu nghĩ tới chuyện vẽ viên cầu kỳ, thịnh soạn! Do thế mà chúng ta không lấy gì làm lạ khi được biết, xưa người ở vùng này có “tài” ăn mặn, rất mặn, đến nỗi “có người trong một bữa ăn, ăn hết hai ống mắm, độ hơn 20 cân, để làm trò vui trong khi đố cuộc nhau”! Còn uống thì, vẫn theo sách Gia Định thành thông chí, ông Trịnh Hoài Đức đã ghi nhận trường hợp ông Nguyễn Văn Thạch nào đó đã từng uống trà Huế (đố cuộc) bằng cách “dùng một cái vò rồng lớn miệng, rót ra bát lớn, uống luôn một hơi, mình ông mặc áo đôi, mồ hôi đổ như nước tắm, giây lát uống hết nước ấy, lấy được tiền cuộc”. Rõ ràng, uống được thật nhiều nước trà nóng sôi ngay khi mới rót ra chén mà không phỏng miệng là cả một sự tài.

Những trường hợp vừa nêu tuy cá biệt nhưng cũng đã nói lên được đặc trưng khẩu vị con người của một vùng đất. Nhưng đó là khẩu vị của ngày trước. Nay tuy đã qua rồi giai đoạn cực kỳ gian nan khổ khó, khẩu vị của họ cũng theo xu thế ăn sang mặc đẹp mà thay đổi: lạt hơn, nhưng những món ăn ghi đậm dấu ấn thời khẩn hoang vẫn hãy còn đó mà đại biểu là cá lóc nướng trui, rắn nướng lèo, mắm kho, mắm sống…

Người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng chẳng những không mặc cảm mà còn tự hào, phát huy để nhắc nhớ cội nguồn, tri ân người mở cõi. Nếu những món ăn độc đáo ấy vẫn tồn tại, vẫn hiện diện trong bữa cơm gia đình và cả trong nhà hàng sang trọng thì khẩu vị và cung cách thưởng thức cố hữu của người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng vẫn được bảo lưu đến mức không thể không gây ngạc nhiên người mục kích, thí dụ như khi ăn, nhiều người không chỉ chan nước mắm vào cơm mà còn dùng muỗng húp, dường như như thế mới “đủ đô”. Và, đối với những người không quen ăn mặn có những món không cần phải chấm nước mắm, nhưng nếu trên mâm không có chén nước mắm họ sẽ cảm thấy bữa ăn mất ngon, bởi chén nước mắm là cái gì đó rất cần thiết, mà thiếu nó chịu không được! Cho nên phải có, và theo thói quen, họ vẫn đưa miếng đến chấm nhưng đó chỉ là một “động tác giả” vì hoàn toàn chưa dính một chút nước mắm nào, vậy mà ngon – không làm động tác giả như thế họ sẽ cảm thấy miếng ăn bị nhạt nhẻo!

Về nơi ăn, với những bữa cơm thường ngày trong gia đình thì tùy điều kiện không gian căn nhà rộng hay hẹp mà bố trí hợp lý: hoặc trên bàn, hoặc ngay trên sàn nhà. Nếu là bạn thân rủ nhau nhậu chơi thì có thể trải đệm dưới gốc cây trong sân vườn hay ngoài đồng, hay trên xuồng ghe tùy thích. Nhưng khi nhà có đám tiệc thì không xuề xòa mà bày biện cỗ bàn rất nghiêm chỉnh trong tinh thần quý trọng khách mời, tạo nên nét văn hóa rất riêng mà cũng rất chung, hài hòa giữa phong tục truyền thống với đặc điểm văn minh vùng sông nước, hầu từng bước hoàn thiện nền văn hóa ẩm thực độc đáo. Độc đáo vì đã biết tận dụng, khai thác và chế biến “của trời cho” một cách kịp thời theo “đơn vị tính” thời gian là “tháng”, “ngày” thậm chí “giờ”. Thật đúng như thế nếu ai đó ở vùng đầu nguồn, có việc phải đi xa nhằm vào tháng cá mờm hoặc cá linh non xuất hiện thì đành phải chịu nhịn, vì sau đó chừng một tháng cá mờm đã lớn thành cá cơm, cá linh non cũng thế. Hoặc trong một năm mới có được mấy ngày “cá ra” (nước trên đồng giựt cạn, cá rút xuống kinh, mương để ra sông), nếu người sống nghề đánh bắt thủy sản không chuẩn bị kịp mọi việc để chặn bắt cá thì xem như năm ấy bị thất thu nguồn lợi lớn. Rau trái cũng không khác. Đặc biệt đối với rau, như bông điên điển, rau dừa, rau muống… nếu hái muộn, từ lúc trời đã trưa nắng đến chiều sẽ không giòn, mất ngon, chức năng kích thích thèm ăn, ngăn chống lão hóa của rau do đó cũng bị giảm rất đáng kể.

 

Điểm đến lý thú với bản sắc văn hóa độc đáo tại Hòa Bình

(Mytour.vn) - Là vùng đất cửa ngõ phía Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội - tỉnh Hòa Bình được coi là cái nôi của người Mường cổ, với nền văn hóa Hòa Bình đặc sắc, nơi quy tụ gần 200 di tích lịch sử  danh lam thắng cảnh, trong đó có 64 di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh và quốc gia.

Địa hình đồi núi trùng điệp với các động Thác Bờ, Hang Rết, động Hoa Tiên, vùng rừng nhiệt đới nguyên sinh Pù Noọc mở ra những tuyến du lịch mạo hiểm leo núi, đi bộ, săn bắn, tắm suối. Sức người và thiên nhiên đã tạo cho Hòa Bình một vùng hồ sông Ðà thơ mộng cho phép phát triển du lịch vùng lòng hồ và ven hồ có đầy đủ vịnh, đảo và bán đảo mà ở đó động thực vật quý hiếm được bảo tồn. Thấp thoáng các bản Mường, bản Dao, bản Tày rải rác ven hồ, ven thung lũng tạo nên bức tranh sơn thủy hữu tình.

 


Cùng với đó là trên 50 bản, làng du lịch-văn hóa, đều là những nơi được đánh giá cao về tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng. Ông Bùi Ngọc Lâm, Giám đốc Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch cho rằng: Đây là lợi thế để du lịch Hòa Bình hấp dẫn du khách thập phương.

Đến với Hòa Bình, du khách sẽ có những trải nghiệm thú vị về nếp sinh hoạt, tính thân thiện và cuộc sống mộc mạc của người dân bản địa. Hòa Bình hấp dẫn du khách bởi nét nguyên sơ của nếp nhà sàn, đức tính giản dị và hiền hòa của con người nơi đây.

 


Đặc biệt, mới đây tạp chí Business Insider đã bình chọn Mai Châu (tỉnh Hòa Bình) là một trong mười địa danh hấp dẫn trên thế giới dành cho tour du lịch văn hóa địa phương: “Chỉ mất khoảng 3 giờ đi ôtô từ Hà Nội, Mai Châu là một điểm du lịch miền núi với những ngôi nhà sàn truyền thống nằm rải rác. Dân cư nơi đây chủ yếu là người Thái trắng sinh sống. Cách tốt nhất để bạn trải nghiệm văn hóa địa phương ở đây là tham gia loại hình du lịch homestay, nghĩa là sống và tham gia sinh hoạt cùng với những gia đình địa phương.”

Cùng với người Mường, người Thái, Tày, Dao, Mông… trong tỉnh sống xen kẽ, hòa hợp với nhau đã tạo nên sự phong phú và đặc sắc của các giá trị văn hóa. Cách trung tâm thành phố Hòa Bình 12km, bản Giang Mỗ, xã Bình Thanh (Cao Phong) là điểm đến lý tưởng của nhiều du khách nước ngoài.

Điểm nổi bật tạo nên sức hút đặc biệt cho bản Giang Mỗ là những nếp nhà sàn dân tộc Mường, sau bao nhiêu năm tháng vẫn giữ được vẹn nguyên nét mộc mạc với gần 100 ngôi nhà sàn còn giữ nguyên bản từ nhà cửa đến nếp sinh hoạt, hệ thống dẫn nước, cối giã gạo, cung, nỏ săn bắn, ruộng bậc thang cùng phương thức làm ruộng truyền thống, các lễ hội, phong tục tập quán Mường được người dân tái hiện từ thực tế cuộc sống.

Xa hơn, du khách có thể về với bản Cú, xã Tử Nê (Tân Lạc), bản Thấu, xã Lạc Sỹ (Yên Thủy)… Du lịch cộng đồng được đưa vào khai thác hơn 10 năm nay, đã đem lại lợi ích thiết thực cho người dân. Từ phát triển kinh tế, người dân đã ý thức được giữ gìn nếp sống hàng ngày, bản sắc văn hóa và đó là một yếu tố tạo nên thành công cho du lịch cộng đồng.

Đó là nét riêng của ngành du lịch Hòa Bình đang hướng đến khai thác, đầu tư cũng là định hướng xác đáng đã được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 11/NQ-TU về phát triển du lịch tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2007-2010, định hướng đến năm 2015: cần gắn phát triển du lịch với việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc và đặc thù văn hóa địa phương.

 


Ngoài ra, giá trị văn hóa được ẩn chứa trong các phong tục, tập quán, lễ hội. Các lễ hội văn hóa đậm đà bản sắc như: lễ hội Khai hạ Mường Bi (Tân Lạc), lễ hội chùa Tiên (Lạc Thủy), lễ hội chùa Hang (Yên Thủy), lễ mừng cơm mới của đồng bào dân tộc Mường, lễ hội Cấp sắc của đồng bào dân tộc Dao... được tổ chức đều đặn hàng năm để cầu cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng tốt tươi, hướng về nguồn cội đã làm thỏa mãn những du khách đam mê khám phá các giá trị cổ truyền. Cùng với các lễ hội, nhiều di tích văn hóa tín ngưỡng được các cấp bảo tồn và phát huy với nhiều hình thức: sưu tầm các di vật, cổ vật trên địa bàn; khơi dậy các sản phẩm du lịch độc đáo nhạc cụ cồng chiêng của người Mường.

Đặc biệt, cái nôi văn hóa của người Việt cổ giờ đây được in đậm trong các quần thể di tích có giá trị khảo cổ như hang Ma (Tân Lạc), hang Giỗ, hang xóm Trại (Lạc Sơn), hang Chổ (Lương Sơn)… Nhờ phát huy được các giá trị văn hóa đó, Hòa Bình ngày càng thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước. Riêng 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh đã đón khoảng 885.000 lượt khách du lịch, trong đó có 150.000 lượt khách quốc tế, 735.000 lượt khách nội địa tăng 20% so với cùng kỳ của năm 2012.

Hòa Bình được đánh giá là một trong những tỉnh có tiềm năng lớn về du lịch, tuy nhiên tỉnh vẫn chưa khai thác được thế mạnh đó. Hiện nay, hồ Hòa Bình ví như một vịnh Hạ Long trên cạn tuy đã đưa vào tuyến du lịch trọng điểm Quốc gia nhưng chưa thu hút được đầu tư. Khách du lịch lòng hồ Hòa Bình phần lớn là du lịch tâm linh đền Bờ, thăm một vài hang động, đảo dừa, đảo cối xay gió, tỉnh chưa có đầu tư tương xứng tạo điểm nhấn ở vùng đất sơn thủy hữu tình này. Để tạo ra một sản phẩm du lịch đặc thù hấp dẫn du khách cần có sự vào cuộc của các cấp, ngành, địa phương. Thực tế này đòi hỏi tỉnh Hòa Bình phải xây dựng chương trình hành động về du lịch thiết thực hơn, đẩy mạnh quảng bá rộng rãi những giá trị độc đáo của nền văn hóa cổ truyền.

 

Về Huế dã ngoại ở suối Voi

(Mytour.vn) - Suối Voi nằm trên địa phận Thừa Thiên - Huế, tên địa phương gọi thân mật là suối Mệ. Theo cách gọi dân gian, mệ có nghĩa là con voi khổng lồ. Suối Voi cũng là địa điểm dã ngoại lý tưởng cho mọi người.

Từ thành phố Huế chạy về phía Nam 60 km, hay Đà Nẵng chạy ra 40 km, rồi thêm 3 km chạy lên phía tây, ngang địa phận Thừa Lưu, xã Lộc Tiến, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên Huế, men theo con đường nhỏ được phủ lớp bê tông, du khách sẽ đến suối Voi, một con suối thật nhiều nước với nhiều ngọn thác lớn tuôn ra dưới một cánh rừng nguyên sinh khá dày thảm thực vật.

 


 Hai bên đường vào suối Voi có nhiều hoa rừng, nhiều nhất là hoa sim tím. Suối Voi là một quần thể nhiều suối được ngăn bởi các tảng đá chồng xếp lên nhau, ấn tượng nhất là tảng đá có dáng hình một chú voi bên suối, vì thế mà dòng suối xanh mát nằm giữa rừng đại ngàn có tên suối Voi.

 


Dòng suối trong xanh đã mê hoặc cả nhóm. Thật sự sảng khoái khi đắm mình vào làn nước mát lành. Ngày nắng đẹp, suối Voi như một tấm gương khổng lồ in bóng bầu trời xanh mây trắng. Dọc những con đường mòn hai bờ suối Voi là rừng cây cổ thụ, có cây to phải vài người ôm mới ráp vòng.
 


Phía thượng nguồn, có những thác nước lớn từ rừng già Trường Sơn tuôn chảy về suối Voi với những màn nước trắng xóa. Nước nguồn liên tục đổ ra, chảy luồn qua những tảng đá lớn nhỏ chen chúc. Càng đi về phía thượng nguồn phong cảnh càng quyến rũ với những thác nước càng lớn, dòng nước xanh thẳm, bọt tung trắng xóa khi nước va đập vào đá. Khung cảnh tuyệt đẹp. Hàng năm, đặc biệt vào mùa hè, lượng khách đổ về suối Voi thăm quan, nghỉ ngơi ngày càng tăng.

 


Sau khi tắm suối, du khách có thể lên nghỉ ngơi tại những lán trại lợp tranh tre nứa, thưởng thức nhiều món ngon dân dã. Đặc sản ở suối Voi là món ếch suối nướng, ốc suối được chế biến nhiều món như ốc xào sả, nấu cháo, xào lá lốt. Nhiều du khách mải mê men theo các vách đá để bắt cua đá, ốc suối, đó cũng là một trong những trải nghiệm thú vị khi về với suối Voi.

 

Về Huế dã ngoại ở suối Voi

(Mytour.vn) - Suối Voi nằm trên địa phận Thừa Thiên - Huế, tên địa phương gọi thân mật là suối Mệ. Theo cách gọi dân gian, mệ có nghĩa là con voi khổng lồ. Suối Voi cũng là địa điểm dã ngoại lý tưởng cho mọi người.

Từ thành phố Huế chạy về phía Nam 60 km, hay Đà Nẵng chạy ra 40 km, rồi thêm 3 km chạy lên phía tây, ngang địa phận Thừa Lưu, xã Lộc Tiến, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên Huế, men theo con đường nhỏ được phủ lớp bê tông, du khách sẽ đến suối Voi, một con suối thật nhiều nước với nhiều ngọn thác lớn tuôn ra dưới một cánh rừng nguyên sinh khá dày thảm thực vật.

 Hai bên đường vào suối Voi có nhiều hoa rừng, nhiều nhất là hoa sim tím. Suối Voi là một quần thể nhiều suối được ngăn bởi các tảng đá chồng xếp lên nhau, ấn tượng nhất là tảng đá có dáng hình một chú voi bên suối, vì thế mà dòng suối xanh mát nằm giữa rừng đại ngàn có tên suối Voi.

Dòng suối trong xanh đã mê hoặc cả nhóm. Thật sự sảng khoái khi đắm mình vào làn nước mát lành. Ngày nắng đẹp, suối Voi như một tấm gương khổng lồ in bóng bầu trời xanh mây trắng. Dọc những con đường mòn hai bờ suối Voi là rừng cây cổ thụ, có cây to phải vài người ôm mới ráp vòng.


Phía thượng nguồn, có những thác nước lớn từ rừng già Trường Sơn tuôn chảy về suối Voi với những màn nước trắng xóa. Nước nguồn liên tục đổ ra, chảy luồn qua những tảng đá lớn nhỏ chen chúc. Càng đi về phía thượng nguồn phong cảnh càng quyến rũ với những thác nước càng lớn, dòng nước xanh thẳm, bọt tung trắng xóa khi nước va đập vào đá. Khung cảnh tuyệt đẹp. Hàng năm, đặc biệt vào mùa hè, lượng khách đổ về suối Voi thăm quan, nghỉ ngơi ngày càng tăng.

Sau khi tắm suối, du khách có thể lên nghỉ ngơi tại những lán trại lợp tranh tre nứa, thưởng thức nhiều món ngon dân dã. Đặc sản ở suối Voi là món ếch suối nướng, ốc suối được chế biến nhiều món như ốc xào sả, nấu cháo, xào lá lốt. Nhiều du khách mải mê men theo các vách đá để bắt cua đá, ốc suối, đó cũng là một trong những trải nghiệm thú vị khi về với suối Voi.

Lâm Đồng tiếp nhận Festival di sản UNESCO trong tháng 12 tới

(Mytour.vn) - Festival di sản UNESCO Việt Nam-ASEAN lần thứ nhất (The First Vietnam – ASEAN UNESCO Heritage Festival 2013) sẽ được tổ chức tại Lâm Đồng trong thời gian 5 ngày (từ 27-31/12/2013). Festival hứa hẹn sẽ mang lại nhiều điều thú vị và bổ ích.

Theo đó, tại Lâm Đồng, Festival Di sản UNESCO Việt Nam-ASEAN lần thứ nhất sẽ được triển khai cùng Lễ kỷ niệm 120 năm Đà Lạt hình thành và phát triển; Festival Hoa Đà Lạt lần thứ V. Nhân dịp này, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và UBND tỉnh Lâm Đồng công bố Năm Du lịch Quốc gia Tây Nguyên-Đà Lạt 2014.

Festival thu hút sự tham gia của các quốc gia ASEAN và các quốc gia đối tác của ASEAN như: Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc; các tỉnh, thành phố của Việt Nam có di sản UNESCO bao gồm 5 tỉnh Tây Nguyên, 4 tỉnh miền Trung và 8t ỉnh, thành phố phía Bắc; sự hưởng ứng tích cực của các địa phương có di sản đang đệ trình UNESCO.
 
Bên cạnh lễ khai mạc và bế mạc sẽ diễn ra hội thảo quốc tế “Mạng lưới Di sản UNESCO tại Đông Nam Á: Bảo tồn gắn với phát triển bền vững”; Tọa đàm “Hoa Đà Lạt và Du lịch”; Triển lãm Đà Lạt hoa và sinh vật cảnh; Giao lưu trình diễn các di sản văn hóa phi vật thể UNESCO Việt Nam-ASEAN; Carnaval di sản UNESCO ViệtNam - ASEAN-Hoa Đà Lạt…

Vườn Di sản và Nghệ thuật sắp đặt Di sản Văn hóa và Thiên nhiên UNESCO ViệtNam-ASEAN gắn với không gian hoa diễn ra tại Công viên Trần Quốc Toản sẽ là nơi trưng bày 10 tác phẩm nghệ thuật sắp đặt tổng hợp, ghi lại những công trình văn hóa nổi tiếng, đặc biệt của 10 quốc gia ASEAN.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng Nguyễn Văn Yên và Vụ trưởng Vụ Văn hóa đốingoại và UNESCO (Bộ Ngoại giao) Phạm Cao Phong – đồng Trưởng Ban tổ chức nhấn mạnh: Mục đích của việc tổ chức sự kiện này nhằm tôn vinh và quảng bá ở tầm quốc tế và khu vực về các di sản Việt Nam đã được UNESCO công nhận và di sản Việt Nam đang đệ trình UNESCO công nhận; tạo diễn đàn trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm giữa Việt Nam, các nước ASEAN và các nước đối tác về bảo tồn và phát huy giá trị các di sản; đồng thời góp phần tăng cường mối quan hệ gắn bó, hữu nghị tốt đẹp giữa Việt Nam và các nước ASEAN, các nước đối tác; ôn lại chặng đường vẻ vang 120 năm Đà Lạt hình thành và phát triển, cũng như giới thiệu, quảng bá hình ảnh thiên nhiên, con người và tiềm năng, thế mạnh của các tỉnh Tây Nguyên, Lâm Đồng - Đà Lạt với bạn bè trong nước và quốc tế…

Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2013

Bãi đá cổ tại Sapa cần một lời giải đáp

(Mytour.vn) - Với những hình vẽ tự nhiên trên các hòn đá lớn, nhỏ tại Sapa. Qua nghiên cứu và tìm hiểu của các nhà khoa học, lịch sử gia... Toàn bộ bức họa trên đá nói về nguyên lý của sự vận động vĩ mô từ khởi nguyên cho đến kết thúc và có tính chu kỳ của vũ trụ.

Theo như hiện nay Nếu tính cả 18 hòn đá đã bị gài mìn nổ tung để làm đường xuyên qua bãi đá, thì tổng cộng bãi đá cổ Sapa có 216 hòn đá có hình vẽ. Đây chính là số hào Dương trong 64 quẻ Dịch. Theo ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh, từ số lượng hòn đá, ông đã nghĩ ngay đến chuyện bãi đá cổ Sapa ẩn chứa những bí ẩn của Kinh Dịch.Mà hiện nay cũng chưa ai có thể hiểu hết về những hình ảnh trên đá đó.
Bãi đá cổ nằm cách thị trấn Sapa 7 km theo hướng Đông Nam. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh - Giám đốc trung tâm nghiên cứu lý học Đông phương (TP.HCM
) - người nhiều năm nghiên cứ bãi đá cổ Sapa, cho rằng bãi đá cổ Sapa ẩn chứa Kinh Dịch của người Việt cổ và ghi chép kho tàng văn hoá cổ Đông phương.


Tại xã Hầu Thào, các hòn đá tập trung thành hai bãi. Bãi một nằm cạnh bản Pho, một bản của người H'Mông trên sườn núi sát đường cái, kéo dài xuống gần lòng suối. Số lượng đá có chạm khắc ở đây không nhiều. Chúng là những khối đá lớn, có khối dài tới 13 m. Bãi hai nằm giáp ranh biên giới xã Hầu Thào và Lao Chải.
Trên đá xuất hiện nhiều hình khắc thuộc nhiều loại. Có những hình khắc độc bản ác hình khắc có thể quy về vài nhóm chính: Hình tròn khắc giống cấu trúc hoa văn, hình Mặt trời, hình nam nữ giao phối, nhấn mạnh vào các bộ phận sinh dục, các đường vạch song song tựa như những quẻ Kinh Dịch...Những hình ảnh mà trước nay chưa thấy ở đâu ngoài ở nơi đây. Mà lại được khắc trên đá, qua thời gian nhưng những hình ảnh ấy cũng thể thể bị phai mờ.


Những luận giải về bãi đá cổ

Nhiều lý giải khác nhau không trùng khớp giữa các nhà khoa học, hầu hết mỗi người đều có một kết luận riêng, ý kiến riêng mà chưa thể quy về là một khi phát hiện ra những bức họa trên đá này. Người thì khẳng định đây chỉ là những bức tranh tả thực, là những hoa văn trang trí, những hình người cách điệu đang tỏa hào quang... 
Có nhà khoa học thì khẳng định toàn bộ bãi đá là một cuốn sách cổ khổng lồ của người Mông diễn tả các trận đánh ngày xưa. Một số nhà khoa học khác cho rằng những hình khắc trên bãi đá chủ yếu thể hiện những cánh đồng, thửa ruộng bậc thang và nhà cửa, làng bản, dân cư sinh sống... 
Người khác cho rằng hình khắc trên bãi đá cổ không thể là tư duy đơn giản của dân tộc Mông, hay Dao sống ở khu vực này từ 300 đến 600 năm về trước. Vấn đề thời gian xuất hiện hình khắc trên bãi đá cũng có nhiều ý kiến. 


Có người cho rằng chủ nhân của những hình khắc này là người Mông, người Dao, sống ở vùng này từ 200 đến 600 năm trước. Người thì cho rằng đó là cư dân văn hóa Đông Sơn (cách đây 2.300 năm đến 3.000 năm).

Có người thì nhận định nó đã có cách đây 5.000 năm, thậm chí là lâu hơn nữa. Gần đây, tiến sĩ Phillipe Le Failler, Viện Viễn Đông bác cổ, cùng 20 cộng sự đã tiến hành dập lấy mẫu những bãi đá này. 

Họ đã dập khoảng 200 tảng đá ở ba xã Hầu Thào, Sử Pán,Tả Van, lập thành 3000 bản dập và khoảng 2.500 bức ảnh. Những bản dập này và những dữ liệu định vị của các viên đá được nhập vào máy tính, sắp xếp, tính toán số lượng, sự lặp lại của các mẫu hoa văn... để làm cơ sở giải mã về các hoa văn, hình vẽ bí ẩn. Theo Phillipe Le Failler, hình khắc trên đá cổ Sapa có thể là một bản đồ, một bài cúng...
Nhiều ý kiến trái chiều luôn được đưa ra, với những cứu và luận điểm cá nhân của họ, nhưng hầu hết đều chưa đưa ra được một câu trả lời cụ thể và thống  nhất lại. Mọi việc vẫn còn cần nhiều thời gian.