Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2013

Lụa Vạn Phúc - Vang bóng một thời

Lụa Vạn Phúc nổi tiếng bao đời nay bởi vẻ đẹp và chất liệu đặc trưng giờ lâm cảnh “ngắc ngoải”, lụa chính thống bị bóp nghẹt bởi hàng trôi nổi khắp nơi tràn về trong đó chủ yếu là hàng Trung Quốc.

Hai chiếc áo dài được làm 100% từ chất liệu tơ tằm lụa Vạn Phúc trong Bộ sưu tập "Nghìn năm hội tụ'' được trưng bày trong Hoàng thành Thăng Long.
Bên cạnh đó, nguồn nguyên liệu tơ cũng không ổn định, giá cả bấp bênh khiến làng lụa Vạn Phúc lâm cảnh đìu hiu. Hơn 30% người lao động gắn bó với làng nghề phải rời xa nghề cha ông để lại để tìm cho mình cơ hội mới.
Theo ông Nguyễn Văn Sinh – Chủ tịch Hiệp hội làng nghề lụa Vạn Phúc, Hiệp hội được thành lập hơn 10 năm, đến nay có hơn 400 hội viên tham gia gồm các hộ kinh doanh, hợp tác xã (HTX), cơ sở sản xuất, doanh nghiệp.
Mặc dù những năm gần đây lượng khách du lịch vẫn nhiều, bình quân mỗi năm Vạn Phúc đón hơn 10.000 lượt khách đến tham quan, du lịch, mua sắm. Vạn Phúc đã có cả một con phố tơ lụa với số người tham gia kinh doanh ngày càng nhiều, tổng số gian hàng lên tới 150 gian. Tuy nhiên, một nghịch lý đã và đang từng ngày diễn ra ở đây là lượng lụa do người dân làng nghề sản xuất tiêu thụ ngày một chậm lại.
Mập mờ đánh lận, nguy cơ mất thương hiệu
Năm 2011, tổng các sản phẩm lụa trong làng được tiêu thụ khoảng 2 triệu mét, chỉ bằng 1/3 lượng tiêu thụ so với 3 năm trước. Lý giải điều này ông Sinh cho biết, tuy ở trung tâm Hà Nội như phố Hàng Gai, Hàng Trống nhiều đại lý lụa Vạn Phúc được mở ra thuận tiện rất nhiều cho việc mua sắm của khách đi tour nhưng với sự nổi tiếng của làng nghề, nhiều vị khách cầu kỳ sẵn sàng thuê taxi tốn hàng trăm nghìn, lặn lội vào làng để tìm mua tận gốc, đôi khi chỉ là chiếc khăn hay cái ví. Họ vào để được tận mắt chiêm ngưỡng quy trình dệt ra những vuông lụa đẹp và để mua được tận gốc sản phẩm.

Người sành nhất về lụa của Thái Lan đến thăm gian hàng lụa Vạn Phúc tham dự triễn lãm di sản lụa Asean tại Thái Lan
Nhưng những năm gần đây, Vạn Phúc ngập tràn hàng trôi nổi từ khắp nơi đổ về, trong đó đặc biệt hàng Trung Quốc chiếm đa phần. Với đặc điểm màu sắc bắt mắt, giá thành rẻ hơn cộng với sự nhá nhem “đồng thau lẫn lộn” trong cách bán hàng nên hàng Trung Quốc thường được người bán ưu tiên mời chào, người mua ưu tiên chọn lựa và nghiễm nhiên được tiêu thụ mạnh hơn nhiều so với hàng chính thống. Thương hiệu lụa Vạn Phúc vì thế mà đang bị đe dọa nghiêm trọng.
Thực ra trong quá trình mua bán, có những người vì tham rẻ nên lụa trôi nổi có “đất sống”, cũng có những người muốn tìm mua những vuông lụa thực sự nhưng giữa muôn vàn màu sắc sặc sỡ, độ nặng nhẹ, dày mỏng mà không thể phân biệt được hàng chính thống hay hàng trôi nổi.
Theo ông Sinh, để phân biệt được giữa sản phẩm chính thống và sản phẩm trôi nổi không đơn giản vì cùng một loại tơ, máy dệt tương tự nhau, hàng nhái được sản xuất rất tinh vi, ngay cả người trong nghề cũng khó lòng nhận ra; cái khác ở đây chủ yếu là họa tiết hoa văn, người thợ chuyên nghiệp thường nhìn vào họa tiết hoa văn và phải có kính để soi mật độ phân sợi.
Hiện nay lụa Vạn Phúc thông thường chia làm hai loại chính, loại cao cấp là sa tanh được làm từ 100% sợi tơ nguyên chất, có thể chập đôi, hoặc chập ba rồi se lấy sợi để dệt. Hoặc loại được pha với tỉ lệ 30%, 50%, 70% giữa tơ tự nhiên với sợi tổng hợp như cotton hay tơ nhân tạo (được làm từ sợi visco, polyester). Cách đơn giản để khách hàng có thể phân biệt được sản phẩm trước tiên là cảm giác khi cầm hai tấm lụa. Lụa Hà Đông khi cầm sẽ có cảm giác nhẹ hơn vì chất liệu tơ tằm bao giờ cũng nhẹ hơn chất liệu lụa khác. Tiếp đến khách hàng có thể thử bằng cách đốt sợi lụa, nếu lụa 100% nguyên chất khi cháy sẽ có mùi khét như khi tóc mình cháy. Lụa pha sợi tổng hợp như cottong thì cháy không có mùi khét. Nhựa pha sợi visco bao giờ cũng để lại tàn cứng khi cháy.

Khách du lịch nước ngoài tham quan làng lụa Vạn Phúc
Trước sự nhập nhèm, gây lẫn lộn  giữa hàng trôi nổi với hàng chính thống Hiệp hội đã có hướng vận động người làng Vạn Phúc dệt thương hiệu, địa chỉ sản xuất vào biên lụa. Tuy nhiên, theo ông Sinh có một điểm bất cập là hiện nay đa phần người sản xuất ra vải chỉ làm hàng mộc thôi, các hộ kinh doanh lấy hàng đó đi chuội nhuộm làm ảnh hưởng đến chất lượng của lụa khiến nhiều hộ sợ ảnh hưởng đến thương hiệu nên không mặn mà với việc này, chỉ có hộ nào sản xuất từ đầu đến cuối đi giao cho các cửa hàng mới in tên thương hiệu vào đó. Mặt khác thương hiệu chỉ được biết đến khi người ta mua vải về may, với sản phẩm bán sẵn như khăn, ví, quần áo, tên thương hiệu thường không nhìn thấy được nên đây chỉ được coi một giải pháp tạm thời.
Để xác định thương hiệu du lịch Vạn Phúc là du lịch làng nghề, trước sự cạnh tranh khốc liệt của hàng trôi nổi, ông Sinh cho biết: chỉ có biện pháp tuyên truyền vận động các hộ kinh doanh trung thực, có thông tin rõ ràng cho khách hàng, giới thiệu kỹ đâu là sản phẩm chính thống đâu là mặt hàng của nơi khác, có như vậy thương hiệu làng nghề mới được đảm bảo.
Nguyên liệu biến động
Hiện nay, nước ta vẫn có nhiều vùng trồng dâu nuôi tằm như ở Hà Nội, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Ninh Bình…tuy nhiên nguồn cung cho ngành lụa luôn không ổn định, chất lượng sản phẩm không đồng đều, có thời điểm giống kén không đảm bảo, cho ra tơ chất lượng xấu, sản lượng kém. Giá nguyên liệu những năm gần đây nhiều biến động càng gây sức ép lớn với sản phẩm lụa Vạn Phúc.
Tùy theo chất lượng, mẫu mã mà lụa Hà Đông được bán với nhiều mức giá khác nhau: Loại lụa sa tanh 100% tơ tằm, độ phân sợi dày 80 sợi/cm, dày và bóng có giá dao động từ 250.000 – 280.000 đồng/m, loại  mỏng hơn một chút  nhưng vẫn là 100% tơ tằm, lụa có giá khoảng 170.000 – 200.000 đồng/m. Loại lụa pha 50 – 70% sợi cotton, tổng hợp, độ phân sợi là 40 sợi/cm có giá từ 80.000 – 100.000 đồng.
Chị Phạm Mai Hương – cơ sở lụa Triệu Duy Khánh, người kế nghiệp của dòng họ có 5 đời làm lụa cho biết, trong làng mỗi nhà dệt chuyên một vài loại hoa văn và họ thường lấy hàng trao đổi lẫn nhau. Thông thường hoa văn trên lụa Vạn Phúc thường là các loại hoa cúc cũ, cúc mới, hoa nhỏ, triện thọ, hồng thọ, tre trúc, song hỷ đèn lồng…, mẫu trúc mai bây giờ ít người dệt vì rất khó bán. Mỗi mẫu hoa, người ta sử dụng một mẫu bìa cotton đục lỗ riêng, số lỗ trên bìa nhiều hay ít tùy theo độ cầu kỳ của hoa. Cơ sở của chị chủ yếu sản xuất các loại lụa in hoa một màu. Nét độc đáo ở đây là lụa Vạn Phúc có hai mặt, tùy theo sở thích khách hàng có thể may theo mặt vân dọc, hoa chìm hay vân ngang, hoa nổi  của tấm lụa. Các cơ sở sản xuất giờ thường dệt tơ đơn nghĩa là để nguyên sợi tơ và tơ đôi được se từ hai sợ tơ.
Chị Hương chia sẻ, kinh doanh giờ khó khăn lắm, nhiều người thích hàng rẻ nên toàn chọn mua lụa Trung Quốc, lụa Vạn Phúc bán chậm lắm. Thỉnh thoảng gặp một vài khách đặt hàng chất lượng cao nhưng số lượng ít, hoa văn cầu kỳ, thường là loại tơ 3, tơ 4, hàm lượng lao động thủ công nhiều, một ngày chỉ có thể dệt khoảng 2 – 3m, trong khi đó cùng thời gian lụa thông thường có thể dệt được 8 – 9m. Mỗi mét lụa phải tốn đến 1,5 lạng tơ mà giá tơ tốt lại cao và biến động, khi ra thành phẩm rất đắt nên nhiều khi nhận xong vừa làm vừa lo lỗ vốn.

Xưởng dệt lụa truyền thống của làng lụa Vạn Phúc.
Bao giờ cho đến ngày xưa?
Hồi tưởng lại thời kỳ hoàng kim của lụa Vạn Phúc, ông Sinh chia sẻ “Đó là quãng thời gian khoảng năm 2005 – 2006. Lúc đó tuyến phố lụa chỉ có vài hộ kinh doanh và chỉ có HTX là có gian hàng; còn một vài hộ gia đình, sản phẩm làm ra giao buôn ở một hai cửa hàng trên phố hàng Gai (Hà Nội), ở Sài Gòn lụa Vạn Phúc chỉ có duy nhất trên phố Đồng Khởi, ít điểm bán nhưng toàn là hàng thật chứ không bày bán tràn lan, nhập nhoạng như bây giờ. Cao điểm nhất tổng số lụa trong làng xuất bán lên đến 12 triệu mét, bán chạy hàng gấp 5 – 6 lần bây giờ, rồi lại trầm đi một vài năm đến lúc lại phát triển mạnh, chứ như hiện tại thì chẳng có gì là khởi sắc.
Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế, mọi chi phí cá nhân bị cắt giảm, hoạt động giao thương ở làng Vạn Phúc không tránh khỏi sự trầm lắng. Nay sức sản xuất trong làng giảm sút, chỉ bằng 30% sản lượng của những năm trước. 40% máy móc rơi vào tình trạng chờ việc, không hoạt động thường xuyên. Một vài hộ kinh doanh ế ẩm, không mấy mặn mà với nghề truyền thống đã chuyển sang làm nghề khác để kiếm kế sinh nhai; một số hộ con cái đến tuổi “dựng vợ gả chồng”, đất đai bị thu hẹp không đủ diện tích sản xuất nên cũng ngậm ngùi bỏ nghề; có hộ cha mẹ có tuổi không thể làm nghề, con cái lớn thì học hành, có bằng cấp nên theo nghề khác….
Lại nói về chuyện mẫu hoa văn, ở Vạn Phúc đang xảy ra tình trạng  rất bất cập, có những hộ nghĩ ra mẫu hoa văn rất đẹp nhưng do điều kiện kinh tế khó khăn, không có khả năng sản xuất quy mô lớn nên để xảy ra tình trạng, mẫu của mình vừa làm ra đã bị nhà khác “ăn cắp” sản xuất với số lượng lớn.
Về tình trạng đăng ký bản quyền ông Sinh nói: “Ở đây kinh doanh còn khó khăn nên chẳng ai nghĩ đến việc đăng ký bản quyền mẫu mã, các doanh nghiệp lớn mới có tiền làm việc đó chứ người dân lấy đâu ra, hơn nữa đó chỉ là hàng chợ đưa ra biết có bán chạy hay không chưa gì đã mất khoản “tiền bộn”, không mấy ai dám mạo hiểm”.
Ông Sinh cho biết thêm: Vạn Phúc giờ chỉ còn 2 cụ được phong nghệ nhân, một cụ ngoài 80 tuổi đã lẫn, cụ Nguyễn Hữu Chỉnh thì đã ngoài 70. Nguy cơ mai một nghề là có thật.
Cách đây một thế kỷ, nghề dệt lụa cũng đã từng lâm cảnh lao đao, cha ông đã từng bày tỏ nỗi niềm : “Ngậm ngùi lụa ế, tơ cao/rủ nhau đi gánh bùn ao đổ đồng”, giờ bối cảnh này lại một lần nữa bủa vây con người làng lụa Vạn Phúc. Đấy là xưa kia khi ruộng nhiều, những lúc cơ hàn người dân làng lụa còn có cách kiếm sống bằng việc đi gánh bùn thuê cho nông dân. Giờ đây, hầu hết ruộng đất đã nhường chỗ cho đô thị, nhà máy; nghề nông đâu còn chỗ cho người Vạn Phúc.
Bao giờ cho đến ngày xưa, câu hỏi đó dành cho chính người dân làng Vạn Phúc, liệu tâm huyết, nghị lực, sự tìm tòi có đủ để người Vạn Phúc vực dậy làng nghề để lụa Vạn Phúc lại kiêu hãnh trở về?         

Làng nghề gốm sứ Thanh Hà

(Mytour.vn) - Làng gốm Thanh Hà với quá trình phát triển 500 năm, thế mà có lúc người ta đã quên mất rằng Thanh Hà có nghề làm gốm rất độc đáo. Thế nhưng với tâm huyết của những người cao niên trong làng, gốm Thanh Hà lại dần được phục hồi. Đến làng gốm Thanh Hà bạn sẽ thoả sức ngắm nhìn những hình ảnh của gốm sứ.

 Địa điểm:
- Làng gốm Thanh Hà thuộc phường Thanh Hà, thành phố Hội An, Quảng Nam.
- Làng gốm Thanh Hà nằm ngay bên bờ sông Thu Bồn, cách phố cổ Hội An chừng 3 km về hướng Tây.
- Từ đô thị cổ Hội An đi về phía Vĩnh Điện theo đường Duy Tân sẽ gặp bảng chỉ đường đến làng gốm.

Nằm cách Hội An 3 Km về hướng Tây, vào thế kỷ 16, 17, Thanh Hà là một ngôi làng rất thịnh đạt, nổi tiếng về các mặt hàng gốm, đất nung được trao đổi, bán buôn khắp các tỉnh miền Trung Việt Nam. Nghề gốm của làng có nguồn gốc xuất xứ từ Thanh Hóa, sau khi đã tiếp thu được một số vốn luyến kỹ thuật thì làng đã hình thành một làng gốm như ngày nay.

Lịch sử hình thành và phát triển:

Ngược về lịch sử, cư dân Thanh Hà có nguồn gốc chủ yếu ở vùng Thanh Hóa, Nam Định, Hải Dương vào định cư từ khoảng cuối thế kỉ 15. Trong buổi sơ khai, khi đồ dùng của đại bộ phận dân cư chủ yếu là đồ gốm sứ, đất nung thì cư dân ở đây đã tiếp tục truyền thống của cha ông, khai thác địa thế thuận lợi của vùng đất mới để phát triển nghề gốm. Theo cách nhớ của người làng Thanh Hà thì năm 1516, nghề gốm bắt đầu sản xuất tại làng Thanh Chiêm ( nay là khối phố 6 phường Thanh Hà ), sau đó do không hợp phong thủy nên dời lên Nam Diêu ( tức khối phố 5 phường Thanh Hà ), Nam Diêu có nghĩa là lò gốm phía Nam.

Hiện nay tại Nam Diêu còn miếu Tổ nghề của làng. Hằng năm, người dân làng gốm tổ chức lễ tế Xuân vào ngày mồng 10 tháng Giêng nhằm cúng tổ tiên, mong cho chư thần, tổ nghề và các bậc tiền nhân ban cho năm mới bình an, làng nghề phát triển.
Nhiều thế kỉ qua, nghề làm gốm và gạch ngói ở Thanh Hà nổi tiếng không chỉ ở xứ Quảng mà cả nước và nước ngoài.Trong sách Phủ Biên Tạp Lục học giả Lê Quí Đôn có đề cập đến gốm ” Cochi”, ” Cauchi” ( Giao Chỉ) mà người nước ngoài ưa chuộng có cả gốm Thanh Hà xứ Quảng.Và  kể từ thế kỉ 17 trở lui, do việc tái tạo thành phố Hội An mà sinh ra ngành gạch ngói rất thịnh hành ở Thanh Hà.
Không chỉ phục vụ cho nhu cầu địa phương các vùng lân cận mà còn trở thành một mặt hàng trao đổi mua bán cho cả xứ Đàng Trong. Khi nhà Nguyễn chọn Phú Xuân làm kinh đô, nhiều nghệ nhân được gọi ra Huế xung vào đội thợ xây dựng cố cung. Có người được vua phong đến hàm Bát phẩm, đó là những Chánh Ca, Bát Luyện.

Thuở trước làng gốm Thanh Hà đông đúc với 30 bàn xoay, trăm lò nung nghi ngút khói, cả ngàn thợ thầy làm việc tất bật mỗi năm 6 tháng nắng ráo. Hiện nay cả làng chỉ còn 8 lò gốm với khoảng 35 lao động trong đó chỉ có mươi người thợ giỏi đó là: Bùi Liêu, Ban Sáu, Nguyễn Vinh, Nguyễn Cử, Nguyễn Sao, Lê Phát…Riêng nghề sản xuất gạch ngói có 74 hộ với 455 lao động tập trung ở khối phố 3,4,5,6  phường Thanh Hà.

Sản phẩm:
Làng gốm với những sản phẩm như: lu, chum, vại bình hoa, chậu cảnh nhằm phục vụ cho đời sống người dân. Với những nguyên liệu chính là đất sét và nhờ vào đôi bàn tay chế tác khéo léo của các nghệ nhân, các sản phẩm của làng gốm được mang nhiều hình dáng màu sắc và độ bền riêng biệt. Chính những người thợ gốm Thanh Hà đã làm nên và cung cấp gạch, ngói lợp, ngói lát nền cho các ngôi nhà cổ ở Hội An và các khu vực chung quanh.

Hiện nay, người dân làng gốm Thanh Hà đang làm đúng những công việc và theo đúng cách cha ông họ đã làm trong những thế kỷ trước. Trong đôi bàn tay khéo léo và điêu luyện của họ, những chiếc lọ hoa xinh xắn, những bình trà, bình rượu, những chiếc ấm, bồng binh, những chum, lu, hũ, vại và cả những con vật thân thương như trâu, Bò, mèo, lợn… cứ lần lượt ra đời.
Ngoài việc phát triển nghề dựa vào du lịch, những nghệ nhân làng gốm Thanh Hà vẫn muốn tìm hướng đi vững chắc cho sản phẩm của mình như sản xuất các sản phẩm gốm mỹ thuật tinh xảo dành cho xuất khẩu và phục vụ công tác trùng tu, xây dựng các công trình kiến trúc cổ tại Hội An. Ngày nay, những ngôi nhà cổ ở Hội An đang cần đến bàn tay khéo léo và khối óc thông minh, sáng tạo của những người thợ gốm Thanh Hà. Họ chính là đối tác duy nhất có thể cung cấp những viên gạch xây, những viên ngói lợp đúng tiêu chuẩn, hợp quy cách và chất lượng cao phục vụ công tác trùng tu, bảo tồn cả Hội An, Di sản Văn hóa Thế giới.

Đã từng có thời Hà Nội có Hàng Khảm

(Mytour.vn) - Theo những nghiên cứu và sử sách để lại thì được biết ngày xưa Hà Nội có tên phố là phố Hàng Khảm. Theo một công trình nghiên cứu của Giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương André Masson, vào khoảng năm 1820, Hà Nội đã có tên phố Hàng Khảm (Rue des Incrusteurs), tại đó có nhiều nhà vừa sản xuất vừa bán hàng khảm xà cừ, khảm trai…

Khu phố cổ Hà Nội là tên gọi thông thường của một khu vực đô thị có từ lâu đời của Hà Nội nằm ở ngoài hoàng thành Thăng Long. Khu đô thị này tập trung dân cư hoạt động tiểu thủ công nghiệp và buôn bán giao thương, hình thành lên những phố nghề đặc trưng, mang những nét truyền thống riêng biệt của cư dân thành thị, kinh đô. Ngày nay khu phố cổ Hà Nội là điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn du lịch khám phá về Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.

Đầu năm 1885, phố Hàng Khảm trở thành một phố được trải đá dăm khá tốt, rộng từ 16 mét đến 18 mét, các cửa hàng hầu như của người châu Âu. 

Từ khi thực dân Pháp đắp lại con đường nối từ Đồn Thủy (cửa khu Nhượng địa) tới Cửa Nam thành cổ, thành một con đường rải đá, đổ nhựa, dài chừng 1,5km, và họ gọi đường này là phố Hàng Khảm. Nghĩa là, phố Hàng Khảm khi ấy có chiều dài bao gồm phố Tràng Tiền, phố Hàng Khay và phố Tràng Thi ngày nay. Theo công trình nghiên cứu của Giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương André Masson, vào khoảng năm 1820, Hà Nội đã có tên phố Hàng Khảm (Rue des Incrusteurs). Họ đặt tên phố như vậy bởi quãng từ gần trường đúc tiền (thuộc phố Tràng Tiền ngày nay) đến giáp trường thi Hương của Hà Nội (nay thuộc phố Tràng Thi) có nhiều nhà vừa sản xuất vừa bán hàng khảm xà cừ, khảm trai như sập gụ, tủ chè, bàn ghế, tráp, cơi trầu, khay trà... Tuy nhiên, các hàng khảm đều nằm chủ yếu ở đoạn mé nam hồ Hoàn Kiếm.

Lùi ngược vài thế kỷ thì thấy, trên đất Thăng Long đã có nhiều thợ thủ công khéo tay; lại có những thợ thủ công gốc Nam Định lên Kinh kỳ lập nghiệp trải qua nhiều đời; đặc biệt, có những thợ thủ công mỹ nghệ rất giỏi nghề khảm trai gốc làng Chuyên Mỹ, Phú Xuyên, trấn Sơn Nam, lên hành nghề ở Thăng Long, rồi định cư ở đất này. Những thợ khảm trai và xà cừ gốc làng Chuyên Mỹ (tên Nôm là làng Chuôn) lên Thăng Long, sống tập trung tại làng Cựu Lâu và họ đã lập tại đây đền thờ Nguyễn Kim - Tổ nghề khảm trai Chuyên Mỹ. Làng Cựu Lâu ở vị trí thuộc khu vực phố Tràng Tiền, Hàng Khay ngày nay. Trải nhiều thời gian hành nghề trên đất Thăng Long - Hà Nội, đến thế kỷ XIX, kỹ nghệ chạm khảm có bước phát triển mạnh khi người Pháp đặt chân tới đất này. Các thợ thủ công đã có sự cạnh tranh khi nền kinh tế hàng hóa đã hình thành tại Hà Nội, khiến nhịp độ phát triển của nghề này càng nhanh. Và tất yếu, một phố nghề chính thức được ra đời, đó là phố Hàng Khảm.

Thời mới lập phố Hàng Khảm, đầu phố là Đồn Thủy, một đồn binh lớn, cuối phố, chỗ Cửa Nam thành Hà Nội, cũng có một trại lính Pháp, chỉ một quãng (tương đương Tràng Tiền - Hàng Khay ngày nay) là có nhà ở và cửa hiệu. Quãng phố này có một cổng lớn mở từ làng Cựu Lâu ra, nên gọi là cổng Cựu Lâu. Cổng này có hai trụ xây khá lớn, trên mỗi trụ có một con sư tử đá, tạo tác đơn giản nhưng oai nghiêm. Phố Hàng Khảm lúc ban đầu như A.Masson mô tả là “một con đường rộng chưa tới 3m đầy những hố nước tù đọng”. Và cũng theo A. Masson, chỉ một năm sau đã trở thành “một con đường rất rộng, chỉ còn thiếu những ngôi nhà kiểu châu Âu. Hai bên phố là những ngôi nhà lá. Hai, ba cửa hiệu của người Tàu, rất sạch và lịch sự, nằm đầu dãy các cửa hàng...”. Chính thời gian mở rộng đường phố đã phải phá bỏ cổng Cựu Lâu. Năm 1885, Đốc lý Hà Nội là Halais cho lập quy hoạch vùng quanh Hồ Gươm với một tiến trình là đến hết năm 1886 phải dỡ tất cả nhà lá và làm thay vào đó những ngôi nhà xây gạch lợp ngói. Có một dấu vết khá thú vị còn sót lại đến đầu thế kỷ XXI là trên “trán” ngôi nhà số 3 Hàng Khay vẫn còn dòng chữ đắp nổi năm xây nhà - 1886. Tuy nhiên, vào chính năm 1886, Tổng trú sứ Paul Bert qua đời, chính quyền thực dân cho cắt một đoạn phố Hàng Khảm, từ cửa ô Tây Long (khu vực Nhà hát Lớn ngày nay) đến ngã tư Hàng Giò, Hàng Thêu (ngã tư Bà Triệu, Lê Thái Tổ ngày nay), đặt tên là phố Paul Bert. Năm 1900, trên tạp chí Revue Indochinoise, ông Dumoutier, một học giả người Pháp, đã mô tả: “Mặt phố Paul Bert đoạn áp hồ (Gươm) toàn là nhà các thợ khảm. Những ngôi nhà này hẹp và thấp, xây bằng gạch, lợp ngói. Mặt trước nhà nào cũng có mái che lợp lá, gian giữa trông ra hồ...”.

Có một điều rất lạ là, khi chính quyền thực dân đặt tên phố Paul Bert năm 1886, nhiều người dân Hà Nội đã gọi đoạn trên phố, nơi vốn có trường đúc tiền, là Tràng Tiền, đoạn tiếp đó là Hàng Khay. Và, phần còn lại của phố Hàng Khảm nhưng không có nhà nào làm và bán đồ khảm trai, xà cừ, thì người ta cứ gọi là Trường Thi vì đây vốn là khu vực tổ chức thi Hương ngày xưa, ít lâu sau thì gọi là phố Tràng Thi. Và dần dần tên phố Hàng Khảm cũng lu mờ trong đời sống. Cho đến năm 1945, Tràng Tiền, Hàng Khay, Tràng Thi trở thành tên chính thức của ba phố ấy, và phố Hàng Khảm lùi sâu vào ký ức của Thăng Long - Hà Nội...

Mùa nước tràn đồng thưởng thức món cá leo ngon ngọt

(Mytour.vn) - Mùa nước tràn về ngập đồng đó là thời điểm cá leo sẽ leo" lê ruộng đồng để phối giống, cũng là thời điểm thích hợp cho người dân chuẩn bị đồ nghề để có những món cá leo thơm ngon ấn tượng.

 Thích sống dọc theo bờ sông và kênh rạch và đến mùa nước lên, khoảng từ tháng 6 đến tháng 9 âm lịch, cá leo lại "leo" lên ruộng lúa tìm nơi lý tưởng để giao phối.

Đó là lúc nước vừa tràn đồng, mưa rơi lất phất, đăc biệt vào những đêm trăng thượng tuần, con đực con cái từ các sông ngòi, kinh rạch phóng lên mặt ruộng xâm xấp nước để đùa giỡn và làm nhiệm vụ truyền giống.

Tác giả Trần Văn, người từng chứng kiến cảnh rượt cá leo đã có đoạn mô tả thật hấp dẫn: “Các cô cậu cá leo làm tình mùi mẫn, quần nhau cho bằng thích, rượt đuổi nhau tung tóe nước, lấp lánh dưới ánh trăng bàng bạc”.

 


Cá leo là một loài cá nước ngọt có nhiều ở khu vực sông Tiền và sông Hậu, đặc biệt các vùng gần biên giới Việt Nam - Campuchia như Châu Đốc, Tân Châu (An Giang), Hồng Ngự (Đồng Tháp)… Thuộc loài cá da trơn, mình cá leo dẹp và dài, đầu to, miệng móm, môi trớt giống như cá trèn bầu nhưng to hơn nhiều, có con nặng đến 3-4 kg.

Các vùng gần biên giới Việt Nam - Campuchia như Châu Đốc, Tân Châu (An Giang), Hồng Ngự (Đồng Tháp)… một thời nổi tiếng với nghề săn bắt cá leo.

Khác cá trèn, cá kết cùng loại, cá leo "làm tình" rất sôi nổi, dữ dội, không phải một cặp mà có đến hàng chục cặp đuổi nhau làm tung tóe mặt nước trắng xóa. Thậm chí những cặp ham vui, "leo" lên tới chỗ cạn, mắc kẹt rồi vùng vẫy chờ chết.

Gặp nơi nước sâu chúng chỉ làm cho mặt nước dợn sóng nhưng cũng không qua mắt được những ngư dân thiện chiến. Chính vì vậy mà dân gian mới gọi là “cá leo”. Và đây cũng là thời điểm thích hợp để bà con ngư dân chuẩn bị đồ nghề săn bắt (người vùng Châu Đốc xưa gọi là rượt cá leo).

Dụng cụ để bắt cá leo rất đơn giản, thường chỉ cần duy nhất cái nơm. Khi phát hiện mặt nước dợn sóng, người ta theo dõi và chờ đợi khi nào cá xuất hiện là dùng nơm để chụp, một cách dễ dàng.

Nhưng đó là chuyện của hai ba mươi năm về trước. Bây giờ loài cá nầy rất hiếm và quý nên bà con phải khai thác bằng cách dỡ chà, giăng lưới, giăng câu…

Anh Nguyễn Văn Thiên, một tay lưới nổi tiếng ở An Phú - An Giang cho biết cá leo xuất hiện nhiều vào mùa nước nối nhưng rất khó đánh bắt. Do vậy giá cả thường cao hơn các loài cá khác.

 


Thịt cá leo săn chắc, thơm ngon, ngọt và béo lại không xương nên được các bà nội trợ chế biến thành nhiều món ngon độc đáo như cá leo chiên tươi, ướp muối chiên, kho lạt, nướng, nấu canh chua… món nào cũng có đẳng cấp. Và một trong những món ngon độc đáo mà các nhà hàng thường chế biến phục vụ cho du khách hiện nay là cá leo nướng muối ớt.

Muốn chế biến món ngon trước hết phải chọn mua những con còn tươi sống đem về làm sạch nhớt bằng cách rửa nước ấm hoặc nước muối, móc bỏ mang, ruột, cắt bỏ vây, để cho ráo nước. Sau đó đem cá ướp với tỏi, ớt, chút bột nêm và bột ngọt cho thấm đều trước khi đem nướng trên bếp than hồng hoặc bếp điện.

Trong khi nướng, phải trở cá thường xuyên, xát thêm muối ớt và dầu ăn nhiều lần cho đến khi da cá chuyển màu, mỡ cháy xèo xèo, bốc mùi thơm lựng là cá chín. Đặc biệt cá leo da mỏng, thịt mau chín nên khi nướng tránh cháy khét, mất ngon.

Nước chấm thích hợp nhất với món cá nướng là nước mắm chua cay hoặc muối ớt vắt chanh. Món ăn này có thể ăn chung với bún hoặc cuốn bánh tráng kèm thêm các loại rau, xà lách, dưa leo, chuối chát, khế... Có thể coi đây là món ngon đặc sản, thịt cá lại hiền, bổ dưỡng và ăn ít ngán nên mọi người đều ưa thích.

Mytour.vn (Theo Tuổi trẻ)

 

Khánh Hòa khai trương trung tâm Lặn biển Vietravel

(Mytour.vn) - Nhằm mục đích phục vụ nhu cầu ngày càng cao của du khách đến với Khánh Hòa vì thế vừa qua Trung tâm Lặn biển Vietravel (VINADIVING) vừa khai trương và đưa vào hoạt động tàu du lịch lặn biển theo chuẩn Hiệp hội Lặn Thế giới (PADI).

Tàu lặn mới có tên Dolphin được xem là tàu vận chuyển chuyên dụng dành cho khách lặn hiện đại nhất hiện nay tại Nha Trang. Tàu  được trang bị đầy đủ các thiết bị hỗ trợ lặn biển hiện đại theo tiêu chuẩn PADI như: Phao, bè cứu sinh, thiết bị phòng cháy chữa cháy, thiết bị cấp cứu, bình Oxy, bộ đàm hỗ trợ cho công tác cứu hộ 24/7, hầm vệ sinh tự hủy… Với các trang thiết bị hiện đại, tàu sẽ đảm bảo chuyến lặn khám phá thế giới dưới nước của du khách được chất lượng, an toàn và bảo vệ môi trường.

 


Nhân dịp khai trương tàu lặn Dolphin, VINADIVING triển khai nhiều chương trình ưu đãi dành cho khách hàng đăng ký. Theo đó, giá lặn biển khám phá giảm 25% còn 399.000đ; lặn biển và tham quan 4 đảo giảm 15% còn 429.000đ; khóa học lặn giảm 10% còn 3.999.000đ (chứng chỉ quốc tế SSI). Chương trình áp dụng đến hết ngày 31/8/2013.

VINADIVING là đơn vị trực thuộc Công ty Du lịch Vietravel, được thành lập từ năm 1997. Với sự hỗ trợ của các chuyên gia, Hiệp hội lặn biển quốc tế, VINADIVING là nơi đào tạo lặn chuyên nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế, được cấp chứng chỉ cho học viên và tổ chức nhiều dịch vụ khác như: Tổ chức tour lặn, sự kiện đám cưới dưới nước, lặn dịch vụ, khảo sát, phục vụ công tác bảo tồn sinh thái biển… VINADIVING đã được Hiệp hội Du lịch Khánh Hòa bình chọn là điểm đến hấp dẫn, an toàn và thân thiện 2012.

Mytour.vn (Nguồn baokhanhhoa)

 

Tuần Du lịch di sản văn hóa các dân tộc

(Mytour.vn) - Theo UBND tỉnh Hà Giang, Tuần Du lịch di sản văn hóa các dân tộc tỉnh Hà Giang năm 2013, sẽ diễn ra từ ngày 19 đến 23/11, không gian trải dài từ huyện Quang Bình đến Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc, Đồng Văn.

Thông tin từ Hà Giang cho biết, từ ngày 19 - 23/11, UBND tỉnh Hà Giang sẽ tổ chức Tuần Du lịch di sản văn hóa các dân tộc tỉnh Hà Giang năm 2013, không gian tổ chức trải dài từ huyện Quang Bình đến Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc, Đồng Văn. Đây là hoạt động nhằm tôn vinh giá trị các di sản văn hóa phi vật thể của tỉnh Hà Giang đã được ghi vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia và các di sản văn hóa truyền thống các dân tộc, góp phần tăng thêm niềm tin, tự hào, quyết tâm trong việc bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Hà Giang, đồng thời tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá bản sắc văn hóa độc đáo trong đời sống, sinh hoạt nghệ thuật các dân tộc.

 

 


Trong khuôn khổ Tuần Du lịch di sản văn hóa các dân tộc Hà Giang sẽ diễn ra các hoạt động như: Tham quan làng Văn hóa du lịch cộng đồng thôn Nặm Đăm; Trình diễn Nghi lễ cấp sắc dân tộc Dao tại thôn Nặm Đăm, xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ; Tham gia dệt lanh cùng dân tộc Mông xã Lùng Tám; Trình diễn di sản văn hóa phi vật thể “Lễ hội Gầu tào của dân tộc Mông tại thị trấn Yên Minh; Tham quan, trải nghiệm, khám phá Hang Nà Luông, xã Mậu Long; Tổ chức giao lưu văn nghệ dân gian các dân tộc; Tái hiện lễ mừng năm mới (Lễ múa trống) dân tộc Giáy; Chương trình trải nghiệm thực tế “Cày trên nương đá, kỹ thuật thổ canh hốc đá, xếp tường rào đá, nương đá..tại xã Sủng Trà; Tham quan, trải nghiệm thực tế tại khu di tích kiến trúc nghệ thuật Nhà Vương, tái hiện đời sống sinh hoạt của Vua Mèo; Tham quan phố cổ Đồng Văn, tổ chức chương trình giao lưu văn nghệ, tái hiện Lễ cúng tổ tiên dân tộc Lô Lô và thưởng thức đêm hội Khèn Mông tại trung tâm huyện Đồng Văn; Giao lưu, thưởng thức văn hóa ẩm thực của đồng bào các dân tộc thiểu số trên vùng Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đông Văn tại Thị trấn Đồng Văn như: Thắng cố, mèn mén, chá lảo, thịt treo, lạp sườn, rượu ngô...

 

 


Lễ khai mạc Tuần Du lịch di sản văn hóa các dân tộc Hà Giang sẽ diễn ra 20h ngày 19/11/2013 tại Sân vận động huyện Quang Bình. Trước đó, trong ngày 19/11 diễn ra các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, trò chơi dân gian tại sân vận động huyện Quang Bình; chương trình giao lưu văn nghệ và trình diễn lễ hội nhảy lửa của người Pà Thẻn, xã Tân Bắc, huyện Quang Bình.

 

Mytour.vn (Theo Cinet)