Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2013

Sam Hạ Long món ngon hấp dẫn

(Mytour.vn) - Hải sản luôn là món ăn hấp dẫn và cũng là đặc sản của vùng biển, và món sam biển ở Hạ Long cũng làm cho nhiều thực khách muốn ăn ngay khi nhắc đến. Thật thú vị mỗi khi đến biển là lại được ăn món ăn này và nhiều cách chế biến khác nhau làm ta càng muốn khám phá.

Đến Hạ Long bạn đã được thưởng thức chả mực, các món làm từ ngán vậy thì bạn cũng không thể bỏ qua một đặc sản biển ở đây đó là loài sam biển vừa quý hiếm, sam biển Quảng Yên ngon bổ dưỡng không chỉ nổi tiếng về giống sam to mà người làm sam cũng đầy công phu khi chế biến chúng.


Chế biến:
Thật thú vị mỗi khi tôi được ăn món Sam là sẽ có cách chế biến khác nhau làm tôi không thể quên, vị ngon, thơm của nó thì vẫn in đậm trong lòng. Từ nguyên liệu chính là thịt sam biển, con người có thể chế biến ra được rất nhiều món ăn khác nhau, như: tiết canh sam, gỏi sam, chân sam xào chua ngọt, sam xào xả ớt, trứng sam chiên giòn, trứng sam xào lá nốt, sam hấp, sam bao bột rán, sụn sam nướng, sam xào miến… Các món ăn từ thịt sam biển thơm ngon, nhưng để có được những món ăn độc đáo ấy, thì khâu làm thịt sam và chế biến là cả một quy trình công phu. Việc đầu tiên cần nói đến là quá trình đánh bắt sam biển. Để bắt được sam biển, ngư dân phải tính con nước và định ngày ra khơi. Sam thường đi theo đôi (một đực, một cái), nên đã tìm thấy sam là bắt được cả hai con một lúc. 



Phân biệt sam và so:
Nếu chỉ bắt được 01 con, thì ngư dân sẽ nhanh chóng thả ngay xuống biển, vì đó là con so. Sam rất dễ nhầm với so, mà ăn so hay bị đau bụng. Nên mọi người thường không ăn.
Những người đi biển lâu năm dễ dàng phân biệt được hai loại này. Về kích thước, so giống sam cái nhưng nhỏ hơn. Miệng của sam bằng phẳng còn so thì hõm sâu. Dấu hiệu dễ phân biệt nhất là so có số gai nhiều hơn rất nhiều so với sam. Sam biển là loại hải sản chỉ sống trong tự nhiên, chưa nuôi trồng được, khi đánh bắt lên bờ chỉ sống được không quá ba ngày.Đây cũng là một thử thách đối với những người làm nghề đánh bắt, kinh doanh sam.



Quy trình đánh bắt sam và kinh doanh các món ăn chế biến từ sam biển vừa vất vả, vừa công phu nên không có nhiều nhà hàng làm món ăn này.Khi giết sam phải có đủ ba dụng cụ là dao nhọn, dao chặt và kéo để lấy phần chân, lọc thịt, bỏ ruột và gan (vì bộ phận này chứa nhiều tác nhân gây đau bụng). Sam là món ăn thuộc loại hàn tính, nên phải ăn cùng những gia vị nóng như: giềng, sả, ớt, lá lốt… cùng với tài nghệ khéo léo và kinh nghiệm lâu năm của người đầu bếp, chúng ta sẽ có những món ăn đặc sắc chế biến từ sam biển với những hương vị rất riêng.
Thịt sam ngon, vỏ sam cũng rất hữu dụng, có thể khắc hàn, cảm lạnh và kỵ sài cho người và vật nuôi. Ngày nay, người ta bắt sam chủ yếu để lấy vỏ. Vỏ sam được xuất khẩu sang Trung Quốc. Từ vỏ sam, người Trung Quốc có thể dùng để chế tác ra đồ lưu niệm có độ tinh xảo, hấp dẫn du khách.
Chỉ ăn Sam một lần là bạn sẽ thích ăn nhiều lần khác, bạn sẽ được hưởng thụ những món ngon đặc biệt của Sam, tùy theo cách bạn ăn, bạn có thể lựa chọn xào, nướng, xào chua ngọt, xào cay...

Đặc sản Lào Cai: Cuốn sủi đất hấp dẫn thực khách

(Mytour.vn) - Đến Lào Cai bạn sẽ được ngắm những hình ảnh đẹp và thật sự hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước. Ngoài những điểm du lịch nổi tiếng như đỉnh Phan Xi Păng, sapa… thì bạn cũng không thể quên đặc sản nơi đây đó là món Cuốn Sủi Đất, đơn giản thôi nhưng nó mang hương vị riêng biệt của vùng đất Lào Cai này.

Một hương vị đặc trưng nơi đây, đến đây bạn không được thưởng thức món này thì sẽ thật phí hoài cho một chuyến đi lên vùng cao. Không có đặc sắc, cũng chẳng quá cầu kỳ nhưng nó lại mang hương vị riêng biệt.

Cuốn sủi còn được gọi với cái tên phở khan, khá giống với món phở Tíu. Cũng là bánh phở trắng mềm dưới bát, phía bên trên lớp phở được rắc chút mỳ bằng củ dong rang ròn cùng thịt bò, gia vị được nấu sền sệt thành một thứ nước sốt có hương vị riêng. Trên cùng của bát cuốn sủi là hạt tiêu, lạc, rau thơm và vài lát ớt.
 


Khi nhân viên bưng bát cuốn sủi trên tay mang ra cho thực khách, một hương thơm ngào ngạt, hoà quyện cùng không gian nơi đây. Nó mang một âm sắc đặc biệt trong món ăn mà không phải nơi nào cũng có thể có được. Bát cuốn sủi với nước sốt nóng hổi. Cuốn sủi không có nước dùng như phở mà chỉ có nước sốt được rưới lên phở trắng. Khi ăn, bạn chỉ cần đảo đều các loại gia vị với bánh phở, gia giảm thêm chút tương ớt, gia vị và ăn kèm với món rau bạc hà tươi ngon, vậy là đã có một bữa sáng ngon lành trên mảnh đất vùng cao này.
 
Đó là đặc sản vùng miền nơi đây, nên bạn không khó gì có thể tìm được một quán cho mình nơi đay. Ở Lào Cai, có rất nhiều quán hàng cuốn sủi và nhà hàng chế biến món ăn kiểu người Hoa. Nhưng đa phần những khách đi tàu lên Lào Cai thường dừng lại ở ngay quán ăn chỉ cách ga có vài bước chân. Tại đây, trong khi chờ đợi món cuốn sủi, bạn có thể tranh thủ vệ sinh cá nhân và chuẩn bị hành lý cho chuyến đi khám phá mảnh đất Lào Cai. Một bát cuốn sủi ngon lành, lạ miệng, thơm thơm hương quế với giá cả phải chăng luôn là lựa chọn của những người bạn trẻ khi đến với Lào Cai. Không chỉ hợp túi tiền với người lao động, món này còn có thể ăn mọi mùa trong năm và đã ăn một lần bạn sẽ không thể quên được hương vị của nó.
 
Cùng với món thắng cố ngựa, cuốn sủi là món ăn đặc trưng của vùng đất Lào Cai mà bất cứ ai khi đến cũng muốn thưởng thức một lần.Khi đã ăn một lần cứ mỗi lần ngửi thấy hương vị ấy là bạn lại nhớ đến mảnh đất Lào Cai xinh đẹp này.

Món ngon Sài Gòn: Bánh canh ghẹ

(Mytour.vn) - Bánh canh ghẹ ngon thơm, được bưng ra nghi ngút khói, với những sợi bánh mềm dẻo được hòa quyện với nước lèo đặc biệt có mùi vị riêng của nó với màu sắc vàng càng làm thêm sự hấp dẫn của món ăn.

Bắt đầu bước chân vào quán Muối Ớt Xanh, các thực khách sẽ , thực khách sẽ không phải đợi lâu, bởi những tô bánh canh ghẹ nóng hổi thơm ngon được mang đến ngay lập tức. Khách sẽ ấn tượng với con ghẹ to đầy đủ càng, mai màu cam óng ánh.


Những sợi bánh mềm dẻo hòa quyện với nước lèo vàng ươm và trên mai ghẹ được phủ các que bánh cua vàng giòn ăn kèm chả cá thác lác chiên... Tất cả mang đến nhiều thú vị cho thực khách khi thưởng thức.
Ghẹ được chủ quán nhập về từ Phú QuốcPhan Thiết, sau đó được thả vào hai hồ lớn. Khi nấu, đầu bếp sẽ chọn ra những con ghẹ tươi ngon và thật chắc để chế biến. Cách này sẽ đảm bảo được vị ngon, ngọt dai tự nhiên vốn có của ghẹ. Tất cả ghẹ trong hồ đều được sử dụng trong ngày để đảm bảo chất lượng.


Nước lèo được nấu từ những rau củ sạch, hòa quyện với vị ngọt của ghẹ, tạo nên hương vị đậm đà tự nhiên cho món. Bột bánh là một trong những công đoạn công phu nhất của quán ăn. Những sợi bánh canh trắng, mỏng manh, mềm mại, sau khi được nấu với nước lèo chuyển sang vàng ươm. Bánh vừa dẻo vừa mềm, mang lại cho thực khách cảm giác ngon, lạ ở trong miệng và đảm bảo vệ sinh.
Món bánh canh ghẹ chắc chắn sẽ làm cho bạn ngây ngất, bạn sẽ muốn ăn thêm, đến khi về nhà bạn cũng vẫn sẽ còn ấn tượng khó quên với món này.
Địa chỉ liên hệ:
484 Nguyễn Tri Phương, quận 10, TP HCM
Giao hàng tận nơi: 0916 50 19 10

Làng nghề - Nón làng Chuông đẹp và thanh nhã

(Mytour.vn) - Cách trung tâm Hà Nội chừng 40 km về phía Tây, làng Chuông (Thanh Oai, Hà Nội) từ hàng trăm năm nay đã nổi tiếng về nghề làm nón lá. Với 2.400 hộ dân ở đây, nghề làm nón không giàu nhưng đủ sống, hợp với vùng quê nghèo, ít cày cấy. Từ lâu đời, hình ảnh người phụ nữ thướt tha trong tà áo dài và chiếc nón lá hay đằm thắm trong tà áo tứ thân với chiếc nón quai thao, đã in đậm vào tâm thức người Việt Nam.

Chiếc nón lá theo người phụ nữ Việt Nam trên mọi nẻo đường, trên những cánh đồng lam lũ, và ngày nay, trên cả những sàn diễn thời trang rực rỡ. Nón làng Chuông đẹp dáng, lại bền, từng là kỷ vật của bao cô gái bước lên xe hoa theo chồng. 


Xa xưa, nón làng Chuông là món quà tiến hoàng hậu, công chúa bởi vẻ đẹp rất riêng, được làm nên bởi những bàn tay tài hoa, khéo léo của các nghệ nhân làng nghề. Còn ngày nay, nón làng Chuông có mặt khắp nơi, cả trong và ngoài nước.

Trung bình một ngày, làng Chuông làm được 7.000 chiếc nón, mang tiêu thụ ở các tỉnh. Ngoài ra, nón làng Chuông đã được xuất sang Trung Quốc, Nhật Bản và các nước châu Âu.

Tuy nhiên, so với các làng nghề khác, người dân làng Chuông vẫn còn nghèo. Nguyên liệu lá lụi phải nhập từ các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, vì làng không tự trồng được. Giá nón xuất đi lại rẻ, chỉ từ 3.000 đến 7.000 đ/chiếc, nên cả gia đình cùng làm thì chỉ thu nhập trung bình một hộ chỉ là 10.000 – 15.000 đ/ngày.

Người xưa có câu thơ vui:

"Muốn ăn cơm trắng cá trê
Muốn đội nón tốt thì về làng Chuông "

Với việc mới đây được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) công nhận nhãn hiệu tập thể "Nón Chuông", uy tín của nón làng Chuông thêm một lần được khẳng định, đồng thời, mở ra những cơ hội mới trong việc bảo tồn, phát triển nghề nón.
Vào những ngày chợ phiên (các ngày 4, 10, 14, 20, 24, 30 hằng tháng), vừa bước chân đến gần khu vực đình làng Chuông, du khách đã thấy một mầu trắng lấp lóa của nón. Cả phiên chợ hàng trăm người bán, hàng nghìn người mua, nhưng chỉ có một sản phẩm duy nhất là nón và các nguyên liệu làm nón. Làng Chuông được xem là làng làm nón lâu đời nhất ở miền bắc.

Tương truyền, nghề làm nón tại đây có đến 500 năm. Xưa kia, làng Chuông sản xuất nhiều loại nón như nón ba tầm cho các cô gái, nón nhô, nón long, nón dấu, nón chóp... cho cánh mày râu. Ngày nay, sản phẩm chủ yếu là nón lá, người làng Chuông thường gọi là nón Xuân Kiều hay nón Ba Ðồn.

Ðể có được chiếc nón đẹp và bền phải trải qua rất nhiều công đoạn. Ðầu tiên là việc chọn lá. Lá nón được lấy từ một loại cây họ nhà cọ ở vùng núi Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An. Người ta phải lựa loại lá mầu sáng và xanh đều thì nón mới đẹp. 

Lá khi được mua về sẽ được vò trong cát để lá mềm rồi mới đem phơi khoảng hai, ba nắng cho đến khi mầu xanh của lá chuyển thành mầu bạc trắng. Sau đó sấy thêm bằng bếp củi, bếp đun lửa nhỏ để lá khô dần mà không bị giòn, không bị nát. 

Vòng nón làm bằng cật nứa được vót nhỏ và tròn, đặc biệt là phải thật đều khi nối với nhau thì nuột nà, trơn tru, tuyệt đối không được lẹm, vênh. Nón làng Chuông có 16 vòng, khuôn tám gọng. Người thợ xếp các vòng nón có kích cỡ khác nhau vào khung gỗ từ chóp nón trở xuống theo thứ tự từ bé đến lớn, tức giai đoạn "vức vòng".
 


Sau khi đã chuẩn bị nguyên liệu, người thợ bắt đầu vào những công đoạn chính là "quai nón" và khâu nón. Người thợ khéo léo xếp lần lượt từng chiếc lá nón đã chọn sẵn lên khung nón, một lớp mo tre ở giữa hai lớp lá rồi bắt đầu khâu. 

Theo chị Tạ Thu Hương - nghệ nhân của làng Chuông, khâu nón là công đoạn khó nhất. Người thợ giỏi khâu nón phải bảo đảm không làm nát lá, không bị lộ chân kim, đường kim mũi chỉ phải đều tăm tắp, khăng khít chặt chẽ, khi soi lên không thấy kẽ hở. Chiếc nón hoàn tất khi kết thúc công đoạn làm nôi, tức phần buộc quai nón, tùy nón mà nôi pha mầu, phối mầu. Ðể tránh thấm nước, người thợ sẽ phết phía ngoài lớp dầu thông mỏng.

Cũng như nhiều làng nghề khác, nghề nón ở xã Phương Trung cũng trải qua không ít thăng trầm. Thời gian gần đây, nhu cầu sử dụng nón của người dân ngày một giảm, khiến nhiều hộ gia đình gặp khó khăn. Tuy nhiên, nhiều hộ gia đình ở Phương Trung đã tìm hướng đi mới, tập trung vào làm hàng phục vụ du lịch, xuất khẩu. Nhiều mẫu mã nón mới, với đủ các kích cỡ khác nhau, ngoài phục vụ cho nhu cầu sử dụng như truyền thống, còn có các loại để làm đồ lưu niệm, trang trí... 

Ðiển hình trong đó phải kể đến nón lụa - được làm kết hợp với một "đặc sản" khác của xứ Ðoài là lụa Hà Ðông. Nhờ đó, nghề làm nón dần được khôi phục và có bước phát triển vững vàng. Nếu như trước đây, người làng Chuông chủ yếu làm nón dân dụng, giá thấp thì nay có những chiếc nón chất lượng cao, mẫu mã đẹp có giá từ 120 nghìn đến 150 nghìn đồng/chiếc. 

Ðặc biệt, nhiều công đoạn làm nón có thể tận dụng lao động dôi dư, với sự tham gia của người già, trẻ em. Hiện tại, mỗi năm xã Phương Trung cung cấp khoảng ba triệu chiếc nón, chủ yếu làm hàng lưu niệm phục vụ khách du lịch. Toàn xã có khoảng 2.700 hộ gia đình tham gia làm nón. 



Mặc dù vậy, nghề làm nón cũng có những cái khó nhất định. Ngoại trừ thợ lành nghề có thu nhập khá, thu nhập bình quân của người thợ bình thường chỉ từ 1,5 triệu đến 2 triệu đồng/tháng. Vì vậy, nhiều bạn trẻ không mặn mà với nghề truyền thống.
 
Nón làng Chuông có truyền thống lâu đời nên UBND huyện Thanh Oai đã có chủ trương xây dựng thương hiệu cho làng nghề xã Phương Trung. Tháng 11-2012, Cục Sở hữu Trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã chính thức công nhận nhãn hiệu tập thể "Nón Chuông" cho nghề làm nón tại xã Phương Trung.


Sự kiện này đánh dấu bước phát triển mới cho nón làng Chuông. Trong Quy hoạch phát triển du lịch Thủ đô đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, thành phố Hà Nội cũng xác định du lịch làng nghề là một hướng đi chính. 

Những năm gần đây, địa danh nón làng Chuông đã xuất hiện trong một số tua du lịch làng nghề. Vì vậy, việc công nhận nhãn hiệu tập thể còn tạo cơ hội tốt để quảng bá nghề làm nón ở Phương Trung, mở rộng thị trường, đặc biệt trong phát triển du lịch. Hiện tại, xã Phương Trung đã quy hoạch và đang chờ cấp thẩm quyền phê duyệt dự án gần 20 ha để phát triển nghề làm nón. 

Với những định hướng này, hy vọng nghề làm nón sẽ phát triển mạnh mẽ hơn, qua đó, thu nhập của người làm nghề được nâng cao, góp phần tích cực vào xây dựng nông thôn mới.

Chợ làng Chuông họp một tháng sáu phiên chính, vào các ngày 4, 10, 14, 20, 24 và 30. Những phiên chợ này chỉ bày bán một thứ hàng duy nhất là nón. Nón được xếp thành từng chồng dài, trắng lóa. Nghề làm nón thích hợp với phụ nữ và họ cũng là người tiêu thụ chủ yếu. Vì thế, các phiên chợ làng thu hút rất đông các bà, các cô tới. Đến phiên chợ làng Chuông vào những ngày đầu năm, mới thấy hết được những đặc sắc của một làng nghề truyền thống, mới biết rằng mầu nón trắng đã trở thành một thứ gần gũi thân thiết với người dân. Mầu trắng của nón lấp loáng khắp nơi, xen lẫn khuôn mặt hồng hào của người thôn nữ, cùng những tiếng cười nói, mời chào rộn ràng. Mặc dù còn nghèo, nhưng nhiều gia đình chỉ làm nón mà đã nuôi hai, ba người con học hết đại học. “Tôi tự hào với nghề truyền thống của làng, nhưng mong rằng, làng nghề được quan tâm nhiều hơn để cuộc sống những người làm nón như chúng tôi bớt khó khăn”. Một nghệ nhân hơn 40 năm gắn bó với nghề, gia đình từng năm đời làm nón, đã thổ lộ như vậy.

Bên những triền đê phơi lá lụi trắng xóa, bàn tay những người dân làng Chuông, từ em bé 7, 8 tuổi cho đến cụ già 70, 80 tuổi vẫn từng ngày gìn giữ vẻ đẹp cho một nghề truyền thống, giữ gìn một nép đẹp bình dị của người phụ nữ Việt Nam, góp thêm niềm tự hào của chúng ta với bạn bè quốc tế.

Phố Hiến - Hưng Yên

(Mytour.vn) - Phố Hiến là một địa danh lịch sử ở thành phố Hưng Yên. Vào các thế kỷ 17-18, nơi đây là một thương cảng cổ nổi tiếng của Việt Nam. Lúc ấy, phố Hiến là một đô thị trải dài theo bờ tả ngạn sông Hồng. Ngoài kinh đô Thăng Long - Kẻ Chợ là thủ đô phồn vinh nhất nước, Phố Hiến đã là một đô thị nổi bật đứng ở vị trí thứ hai. Dân gian có câu: “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”.

Ngay từ thế kỷ 10, vùng Đằng Châu ở phía bắc thành phố Hưng Yên ngày nay vốn là một lãnh địa của sứ quân Phạm Bạch Hổ, đến thời Tiền Lê là thực ấp của Lý Công Uẩn. Thế kỷ 13, dưới thời nhà Trần, khi nhà Nguyên diệt Tống, một số kiều dân Trung Quốc tị nạn đã kéo sang Việt Nam, lập nên làng Hoa Dương. Cùng lúc đó, một số người Việt từ nhiều địa phương khác nhau cũng dần dần đến sinh sống tại địa điểm tụ cư này để buôn bán và làm ăn.


Có nhiều khả năng là tên gọi Phố Hiến lần đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ 15 trong công cuộc cải cách hành chính của vua Lê Thánh Tông. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ 17, Phố Hiến mới trở thành một trung tâm chính trị - kinh tế có nhiều mối giao lưu quốc tế. Lúc này, ở Phố Hiến có lị sở của trấn thủ xứ Sơn Nam, ty Hiến sát xứ Sơn Nam, các trạm tuần ty kiểm soát thuyền bè trong ngoài nước, một đoạn sông tấp nập các thuyền bè đi lại và đỗ bến, những chợ phố đông đúc, các thợ thủ công và thương nhân người Việt, người Hoa, Nhật Bản và phương Tây.



Phố Hiến xưa nằm sát bên bờ tả ngạn sông Hồng, nhưng do phù sa bồi đắp nên ngày nay đã ở cách dòng sông khoảng chừng 2 km. Theo đường sông, Phố Hiến cách Hà Nội 55 km. Trước đây từ Thăng Long xuôi thuyền xuống Phố Hiến mất khoảng 2 ngày, ngược dòng lên Kinh đô mất 3 ngày. Vị trí của Phố Hiến có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các tuyến giao thông đường thuỷ thuộc hệ thống sông Hồng-sông Thái Bình nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ. Các nhà địa chất chia châu thổ Bắc Bộ thành 3 vùng tương ứng với ba thời kỳ thành tạo lớn: Thượng châu thổ với đỉnh của các triền sông là Việt Trì; Trung châu thổ với đỉnh là Cổ Loa; và Hạ châu thổ với đỉnh là Phố Hiến, từ đó các nhánh sông trải ra vùng đồng bằng như những chiếc nan quạt. Bằng đường thuỷ, từ Phố Hiến có thể liên lạc tới hầu hết các địa phương thuộc các trấn Sơn Nam, Hải Dương, An Quảng. Phố Hiến là nơi trung chuyển, cửa ngõ án ngữ hoặc thông thương của mọi tuyến giao thương đường sông từ vùng biển Bắc Bộ đi sâu vào đất liền tới Kinh thành Thăng Long, qua các tuyến sông Đáy, sông Hồng, sông Thái Bình.


Cùng với các tuyến giao thương đường sông, các tuyến giao thương ven biển đã nối liền Phố Hiến với các thị trường xa hơn. Từ thời nhà Trần, các thương nhân người Hoa ở Xích Đằng đã có những mối liên hệ với các cảng Hội Triều (Thanh Hoá), Càn Hải và Hội Thống (Nghệ An). Thế kỷ 17-18, các quan hệ thương mại giữa Phố Hiến và vùng Sơn Nam với các phố cảng Đàng Trong thông qua các khách buôn nước ngoài càng được tăng cường, như các bến đò Phục Lễ, Phù Thạch, Thanh Hà (Thuận Hoá), Hội An. Qua hai hệ thống sông Đàng Ngoài và sông Đáy, Phố Hiến còn bắt nhịp với các tuyến giao thương quốc tế ở biển Đông, như Nhật Bản, Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, cũng như với các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp...

Mè xững Huế - vừa nhai vừa hát

Cái ăn cứ nghĩ đơn giản chỉ là một cách để duy trì sự sống. Ấy vậy mà nó lại bộc bạch nhiều lắm cái nết người, cái chất sống của từng vùng miền… Người ta có thể chối từ màu da, màu tóc nhưng vấn giữ cái hồn cốt của mình trong nết ăn. Và mè xững chính là một điển hình cho chất Huế trong văn hoá Việt, ẩm thực Việt.

“Kẹo mè xững vừa nhai vừa hát” là câu thơ của một người có tấm lòng yêu Huế tha thiết,  muốn trải lòng cùng mảnh đất giàu truyền thống văn hoá này. Lời thơ cũng gợi cho tôi nhớ về một miền ký ức xa xôi của tuổi thơ.Thủa ấy, tôi theo những chuyến hàng của cha mẹ vào Nam ra Bắc. Lần nào cũng vậy, cứ mỗi lần xe qua Huế, tôi đều bắt cha mua cho mình vài phong kẹo mè xững để… “vừa nhai vừa hát”.
 
Những viên kẹo vuông tròn nằm gọn trong tay tôi đã toả một mùi hương hấp dẫn. Vị ngọt béo của đường, bùi bùi của lạc rang, ngậy ngậy của mè, tất cả đã tạo ra sức cuốn hút kỳ lạ với một tâm hồn trẻ thơ thích những điều lạ lẫm. Ở đâu đó, tôi thấy người ta gọi mè xững bằng cái tên khác là “mè xửng”. Dường như biến thể “mè xửng” ấy chỉ nghe thôi đã thấy phong vị Huế bị lấn át đi mất rồi. Phải là “mè xững” - xững dấu ngã mới phản ánh đúng cái âm sắc mượt mà của chất giọng Huế huyền ảo mà mộng mơ.


Thưởng thức mè xững Huế cũng là một nghệ thuật,  không thể nôn nóng, nếu là người thiếu kiên nhẫn, bạn sẽ không thể cảm nhận hết những tinh hoa chứa đựng trong viên kẹo này. Ăn một thanh kẹo ngon, nhâm nhi ấm trà được ướp từ những bông sen hái dưới hồ Tịnh Tâm, đọc một cuốn sách hay, chỉ đơn giản vậy thôi nhưng với nhiều người thì dường như cuộc sống như vậy đã đủ đầy lắm rồi.  Cái bùi giòn của lạc, mùi thơm thơm của vừng và  vị ngọt lịm của đường thật hợp với chén trà sen thơm mát. Nâng ly trà  đưa lên mũi cảm nhận cái mùi hương thanh khiết, sau đó người thưởng thức nhấp một ngụm trà, ăn một miếng mè xửng,  lúc này cái ngọt sắc của kẹo sẽ trở nên thanh nhẹ và đậm đà hơn rất nhiều.

Sau này, mỗi lần có dịp qua Huế, tôi đều nán lại lâu hơn với mảnh đất cố đô. Huế buồn nhưng khiến lòng ta tĩnh tâm cũng như thưởng thức một phong mè xững mà ngẫm nghĩ ra biết bao điều trong cuộc sống. Cứ tưởng mè xững chỉ là một thức quà trẻ thơ, ấy vậy mà nó đã trở thành một món đặc sản theo chân những người con đất Việt sang tận Hồng Kông, Pari. Hiện nay, ở Huế có rất nhiều gia đình làm mè xững nổi tiếng. Nào là Song Hỷ trên đường Phan Bội Châu (nay là Phan Đăng Lưu), Nam Thuận trên phố Hàng Bè (nay là Huỳnh Thúc Kháng), rồi Hồng Thuận, Thiên Hương, Thanh Bình… tính qua cũng có tới trên hai mươi tiệm mè xững gia đình nổi tiếng. Vậy nhưng, với nhiều người, thì chiếc mè xững ngon nhất vẫn là của tiệm Song Hỷ. Chỉ tiếc rằng cái tên đó giờ chỉ còn là ký ức còn lại trong trí nhớ của nhiều người dân Huế bởi gia đình ông chủ đã chuyển việc kinh doanh này sang đất Mỹ.  


Có nhiều người so sánh mè xững giống với kẹo gôm của Pháp. Không biết liệu có phải vì quá yêu mảnh đất Huế thần tiên hay không nhưng tôi luôn cho rằng  kẹo gôm quả thực khó sánh được với mè xững ở cái vị ngon ngọt lưu lại trong lòng thực khách. Phải chăng  phong vị Huế, cái thần thái Huế đã chuyển hoá trong từng chiếc kẹo dân dã ấy?. 

Cái ăn cứ nghĩ đơn giản chỉ là một cách để duy trì sự sống. Ấy vậy mà nó lại  bộc bạch nhiều lắm cái nết người, cái chất sống của từng vùng miền. Có lẽ Nguyễn Dzoãn Cẩm Vân đã đúng khi cho rằng: “với ẩm thực không có thế giới phẳng”. Người ta có thể chối từ màu da, màu tóc nhưng vấn giữ cái hồn cốt của mình trong nết ăn. Và mè xững chính là một điển hình cho chất Huế trong văn hoá Việt, ẩm thực Việt.