Thứ Tư, 23 tháng 10, 2013

Đã từng có thời Hà Nội có Hàng Khảm

 

Theo những nghiên cứu và sử sách để lại thì được biết ngày xưa Hà Nội có tên phố là phố Hàng Khảm. Theo một công trình nghiên cứu của Giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương André Masson, vào khoảng năm 1820, Hà Nội đã có tên phố Hàng Khảm (Rue des Incrusteurs), tại đó có nhiều nhà vừa sản xuất vừa bán hàng khảm xà cừ, khảm trai…

Khu phố cổ Hà Nội là tên gọi thông thường của một khu vực đô thị có từ lâu đời của Hà Nội nằm ở ngoài hoàng thành Thăng Long. Khu đô thị này tập trung dân cư hoạt động tiểu thủ công nghiệp và buôn bán giao thương, hình thành lên những phố nghề đặc trưng, mang những nét truyền thống riêng biệt của cư dân thành thị, kinh đô. Ngày nay khu phố cổ Hà Nội là điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn tìm hiểu về Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.
Đầu năm 1885, phố Hàng Khảm trở thành một phố được trải đá dăm khá tốt, rộng từ 16 mét đến 18 mét, các cửa hàng hầu như của người châu Âu. 

Từ khi thực dân Pháp đắp lại con đường nối từ Đồn Thủy (cửa khu Nhượng địa) tới Cửa Nam thành cổ, thành một con đường rải đá, đổ nhựa, dài chừng 1,5km, và họ gọi đường này là phố Hàng Khảm. Nghĩa là, phố Hàng Khảm khi ấy có chiều dài bao gồm phố Tràng Tiền, phố Hàng Khay và phố Tràng Thi ngày nay. Theo công trình nghiên cứu của Giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương André Masson, vào khoảng năm 1820, Hà Nội đã có tên phố Hàng Khảm (Rue des Incrusteurs). Họ đặt tên phố như vậy bởi quãng từ gần trường đúc tiền (thuộc phố Tràng Tiền ngày nay) đến giáp trường thi Hương của Hà Nội (nay thuộc phố Tràng Thi) có nhiều nhà vừa sản xuất vừa bán hàng khảm xà cừ, khảm trai như sập gụ, tủ chè, bàn ghế, tráp, cơi trầu, khay trà... Tuy nhiên, các hàng khảm đều nằm chủ yếu ở đoạn mé nam hồ Hoàn Kiếm.


 


Lùi ngược vài thế kỷ thì thấy, trên đất Thăng Long đã có nhiều thợ thủ công khéo tay; lại có những thợ thủ công gốc Nam Định lên Kinh kỳ lập nghiệp trải qua nhiều đời; đặc biệt, có những thợ thủ công mỹ nghệ rất giỏi nghề khảm trai gốc làng Chuyên Mỹ, Phú Xuyên, trấn Sơn Nam, lên hành nghề ở Thăng Long, rồi định cư ở đất này. Những thợ khảm trai và xà cừ gốc làng Chuyên Mỹ (tên Nôm là làng Chuôn) lên Thăng Long, sống tập trung tại làng Cựu Lâu và họ đã lập tại đây đền thờ Nguyễn Kim - Tổ nghề khảm trai Chuyên Mỹ. Làng Cựu Lâu ở vị trí thuộc khu vực phố Tràng Tiền, Hàng Khay ngày nay. Trải nhiều thời gian hành nghề trên đất Thăng Long - Hà Nội, đến thế kỷ XIX, kỹ nghệ chạm khảm có bước phát triển mạnh khi người Pháp đặt chân tới đất này. Các thợ thủ công đã có sự cạnh tranh khi nền kinh tế hàng hóa đã hình thành tại Hà Nội, khiến nhịp độ phát triển của nghề này càng nhanh. Và tất yếu, một phố nghề chính thức được ra đời, đó là phố Hàng Khảm.

Thời mới lập phố Hàng Khảm, đầu phố là Đồn Thủy, một đồn binh lớn, cuối phố, chỗ Cửa Nam thành Hà Nội, cũng có một trại lính Pháp, chỉ một quãng (tương đương Tràng Tiền - Hàng Khay ngày nay) là có nhà ở và cửa hiệu. Quãng phố này có một cổng lớn mở từ làng Cựu Lâu ra, nên gọi là cổng Cựu Lâu. Cổng này có hai trụ xây khá lớn, trên mỗi trụ có một con sư tử đá, tạo tác đơn giản nhưng oai nghiêm. Phố Hàng Khảm lúc ban đầu như A.Masson mô tả là “một con đường rộng chưa tới 3m đầy những hố nước tù đọng”. Và cũng theo A. Masson, chỉ một năm sau đã trở thành “một con đường rất rộng, chỉ còn thiếu những ngôi nhà kiểu châu Âu. Hai bên phố là những ngôi nhà lá. Hai, ba cửa hiệu của người Tàu, rất sạch và lịch sự, nằm đầu dãy các cửa hàng...”. 


Chính thời gian mở rộng đường phố đã phải phá bỏ cổng Cựu Lâu. Năm 1885, Đốc lý Hà Nội là Halais cho lập quy hoạch vùng quanh Hồ Gươm với một tiến trình là đến hết năm 1886 phải dỡ tất cả nhà lá và làm thay vào đó những ngôi nhà xây gạch lợp ngói. Có một dấu vết khá thú vị còn sót lại đến đầu thế kỷ XXI là trên “trán” ngôi nhà số 3 Hàng Khay vẫn còn dòng chữ đắp nổi năm xây nhà - 1886. Tuy nhiên, vào chính năm 1886, Tổng trú sứ Paul Bert qua đời, chính quyền thực dân cho cắt một đoạn phố Hàng Khảm, từ cửa ô Tây Long (khu vực Nhà hát Lớn ngày nay) đến ngã tư Hàng Giò, Hàng Thêu (ngã tư Bà Triệu, Lê Thái Tổ ngày nay), đặt tên là phố Paul Bert. Năm 1900, trên tạp chí Revue Indochinoise, ông Dumoutier, một học giả người Pháp, đã mô tả: “Mặt phố Paul Bert đoạn áp hồ (Gươm) toàn là nhà các thợ khảm. Những ngôi nhà này hẹp và thấp, xây bằng gạch, lợp ngói. Mặt trước nhà nào cũng có mái che lợp lá, gian giữa trông ra hồ...”.


 


Có một điều rất lạ là, khi chính quyền thực dân đặt tên phố Paul Bert năm 1886, nhiều người dân Hà Nội đã gọi đoạn trên phố, nơi vốn có trường đúc tiền, là Tràng Tiền, đoạn tiếp đó là Hàng Khay. Và, phần còn lại của phố Hàng Khảm nhưng không có nhà nào làm và bán đồ khảm trai, xà cừ, thì người ta cứ gọi là Trường Thi vì đây vốn là khu vực tổ chức thi Hương ngày xưa, ít lâu sau thì gọi là phố Tràng Thi. Và dần dần tên phố Hàng Khảm cũng lu mờ trong đời sống. Cho đến năm 1945, Tràng Tiền, Hàng Khay, Tràng Thi trở thành tên chính thức của ba phố ấy, và phố Hàng Khảm lùi sâu vào ký ức của Thăng Long - Hà Nội...

 

Đặc sản Đà Nẵng

Ẩm thực Đà Nẵng cũng là một nét văn hóa riêng độc đáo của Đà Nẵng và Miền Trung. Trong bài viết chia sẻ kinh nghiệm du lịch Đà Nẵng mình cũng đưa ra một danh sách các quán ăn ngon tại Đà Nẵng. Tuy nhiên chỉ bấy nhiêu thôi cũng không thể đủ được. Bài viết này mình sẽ tổng hợp chi tiết hơn danh bạ các Món Ngon tại Đà Nẵng. 

  
Bún mắm

Bà Thuyên (Lê Duẩn): bún mắm thịt quay nem chả, mắm ngon tuyệt cú mèo, húp được đã húp rồi. Cái này thì hơi cao cấp 1 xíu vì quán sá đàng hoàng sạch sẽ mà.
Bà Lệ (ở góc ngã tư Nguyễn Hoàng với Nguyễn Văn Linh): bún mắm thịt luộc nem chả tai mui, mắm ngon ko thua gì bà Thuyên.
Bà mập ngã ba Trần Bình Trọng và Ngô Gia Tự: bún nem chả tai mui. Quán này mắm không được ngon cho lắm nhưng có cái chả mỡ chiên tuyệt. Bà chủ rất chi là tốt bụng, xin rau là cho cả mớ luôn
Quán không nhớ tên ở đườg Trần Kế Xương: Bún mắm nem chả thịt quay tai mui cái gì cũng có. Giá cả cũng phải chăng khoảng 5K/tô (giá cũ lâu rồi). Nếu ăn thập cẩm thì có thể mắc hơn 1, 2 nghìn gì đó. Chả mỡ ở đây cũng giống như bà mập.

Bún thịt nướng

Bà Dưỡng Kiệt 11 Hoàng Diệu, Thành phố Đà Nẵng: nước tương ngon số 1 không đâu sánh bằng. Nhưng quán ở trong hẻm hơi bị chật chội. Trong cái hẻm đó cũng rất nhiều quán ăn theo nên phải chú ý vào đúng quán có cữ “BÀ DƯỠNG”, ngoài bún thịt nướng còn có Bánh Xèo cũng rất ngon.
Quán Bà Ngọc, nhiều chi nhánh: Yên Báy, Pasteur, Đống Đa. Chỗ này được cái tương ngon và béo.
Bà Trai Đống Đa (quán này ko có bánh xèo) rau ngon, thịt ướp cũng ngon. Rẻ hơn bà Ngọc.
Bà Xuân (gần siêu thị): ở đây có cả bún mắm nữa, cũng ngon. Nghe giang hồ đồn có mín ram cuốn cải mà chưa ăn thử nơi


 


               Mì Quảng Đà Nẵng


Bánh bèo lọc nậm gói ít ram

Nguyễn Chí Thanh: có 2 quán đầu đường và cuối đường, quán nào cũng ngon.
Hoàng văn Thụ (bà Bé).
Trần Cao Vân (chỉ bán bánh bèo vào buỏi sáng từ 6-9h ) đối diện cái xí nghiệp gì đó của đườg sắt.
Quán nhỏ nhỏ đường Nguyễn Du: siêu rẻ, gần trường Nguyễn Khuyến, bà chủ quán bị còng.
Ngoài ra còn có thể vô chợ ăn: Cồn hoặc Hàn market chẳng hạn, ngon chán

Quà bánh mua về làm quà

Một món bánh có thể mang về làm quà: Bánh khô mè bà Liễu – bánh vừng giòn thơm.
Quầy thực phẩm Bé ti Quầy 135 Chợ Hàn Đà Nẵng: Chỉ cần gọi tới số 0511 837262 là được mang tận nơi, mình ra mua trả tiền rồi chủ hàng mang đến tận khách sạn cho mình.
Quầy mắm Chị Bé (Nhựt Hoàng): Quầy H34/6 K266, số điện thoại 0511582182 rất nhiều loại mắm ngon và cũng mang đến tận nơi luôn.
Quầy Dì nuôi (136 Chợ Hàn – Sđt: 05113812417) – hoặc gọi số 01688919295 để mua đồ hải sản khô, cá, mực, bò, nai khô ăn liền ngon, đóng đồ cẩn thận, bán hàng thật thà, không “ship” hàng.
Tré Bà Đệ – đặc sản Đà Nẵng tại 81 Hải Phòng.
Ngoài ra tại chợ Hàn có thể mua đặc sản của các vùng lân cận với chất lượng tốt, không mua sẽ tiếc đấy nhé, ví dụ như: tỏi và hành tím Lý Sơn, mạch nha đặc sản Quảng Ngãi, thanh trà của Huế…
Mytour.vn - 

Làng cổ Thổ Hà - Bắc Giang

ốn dĩ đã đi lên cùng với tiếng là làng có nghề truyền thống làm bánh đa nem, mì gạo, nghề gốm. Làng Thổ Hà khuất sau những tiếng xe cộ, phố xá nhộn nhịp. Nằm ở xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Được coi là mảnh đất “địa linh nhân kiệt," nổi tiếng trong cả nước với nghề làm gốm và quần thể kiến trúc cổ thuần Việt mang đậm dấu ấn của văn hóa đồng bằng Bắc Bộ.

Thổ Hà đang là một địa chỉ quen thuộc, hấp dẫn của khách du lịch trong và ngoài nước, của những người nghiên cứu về kiến trúc và mĩ thuật, của những nghệ sĩ và nghệ nhân về tìm cảm hứng. Chương trình tham quan của khách du lịch có thể là: ngắm cảnh trên bến dưới thuyền của dòng sông Cầu, thăm đình làng, chùa, cổng làng, văn chỉ, xem các cây đa cổ thụ, thăm một số nhà cổ trong làng, xem những ngõ xóm hun hút đẹp với vẻ cổ kính, thăm lò sản xuất gốm, thăm các gia đình sản xuất bánh đa nem và mỳ gạo bằng máy và thủ công, thăm các gia đình nấu rượu gạo. Khi về du khách nên mua vài trăm bánh đa nem, vài cân mỳ gạo, vài lít rượu gạo nếp để làm quà. Nếu du khách thích cảm giác mạnh hãy đến thăm Thổ Hà khi nước sông Cầu ở mức báo động số 3.

 

Khi du khách đến thăm Thổ Hà có thể đồng thời đến thăm hai địa điểm du lịch nổi tiếng nữa của đất Kinh Bắc, đó là Chùa Bổ Đà và Đền Bà Chúa Kho. Các địa điểm này chỉ cách nhau từ 3 đến 5 km.
Đường đi tới làng: từ Hà Nội theo quốc lộ 1 về hướng Bắc 31 km tới thành phố Bắc Ninh, rẽ trái đi 3 km tới phố Đặng, ngược theo đê sông Cầu 1 km thì tới bến đò Thổ Hà, sang đò là tới làng.

Thổ Hà - Làng nghề vang bóng một thời

 


Chỉ vài phút đi đò là sẽ tới làng


Nghề gốm

Nghề gốm Thổ Hà có từ thế kỉ 12 và là một trong ba trung tâm gốm sứ cổ xưa nhất của người Việt, bên cạnh Phù Lãng và Bát Tràng. Theo gia phả làng nghề và những mẫu hiện vật khảo cổ được tìm thấy thì Thổ Hà là một trong những chiếc nôi của nghề gốm sứ. Thổ Hà đã là một thương cảng gốm tấp nập của vùng Kinh Bắc. Sự hưng thịnh của nghề gốm đã giúp người dân xây dựng một quần thể kiến trúc đình, chùa, văn chỉ, cổng làng, điếm bề thế uy nghi.

Trong làng còn lưu truyền câu chuyện ông tổ nghề gốm làng Thổ Hà là tiến sĩ Đào Trí Tiến. Vào cuối thời Lý (1009 - 1225) ba ông Đào Trí Tiến, Hứa Vĩnh Cảo và Lưu Phong Tú cùng làm quan trong triều và được cử đi sứ Bắc Tống (960 - 1127). Sau khi hoàn tất sứ mệnh, trên đường trở về nước qua Thiều Châu, tỉnh Quảng Đông gặp bão, phải nghỉ lại. Ở đây có lò gốm nổi tiếng, ba ông đến thăm và học được kỹ thuật làm gốm. Về nước Đào Trí Tiến truyền nghề làm hàng gốm sắc đỏ thẫm cho Thổ Hà, Hứa Vĩnh Cảo truyền nghề làm hàng gốm sắc trắng cho Bát Tràng, Lưu Phong Tú truyền nghề làm hàng gốm sắc vàng thẫm cho Phù Lãng. Trước đây lễ dâng hương Tổ nghề gốm (suy tôn cả ba ông) hàng năm được các nhà làm nghề gốm ở Thổ Hà tổ chức luân phiên nhau tại gia đình.

Nghề làm bánh đa nem

Từ bột gạo ngoài sản phẩm chính là bánh đa nem người dân còn sản xuất mỳ gạo và bánh đa to rắc vừng. Mỳ gạo Thổ Hà bó thành bó to 1 kilogam cũng rất nổi tiếng, mỳ nấu dai mà không nát, nghề làm mỳ gạo có trước nghề làm bánh đa nem hiện nay. Bánh đa vừng Thổ Hà còn ngon hơn bánh đa Kế. Mỗi gia đình làm bánh đa nem và mỳ thường chăn nuôi khoảng chục con lợn, mỗi con lợn nặng trên một tạ mới bán, đó là nguồn thu nhập rất lớn. Nhờ nghề làm bánh đa nem dân làng có một cuộc sống xán lạn hơn xưa, phần lớn các gia đình đều có xe máy, tủ lạnh, ti vi, máy giặt, sinh hoạt không khác thành phố là mấy.

Trước đây người làm bánh đa nem phải hì hục quạt lò để tráng bánh bằng phương pháp thủ công, nhưng từ khi có điện, với kỹ thuật tráng bánh mới theo dây chuyền cho năng suất cao đã giảm bớt sự vất vả của con người, năng suất tăng lên gấp ba đến bốn lần. Một gia đình một ngày làm được 250 kg mỳ gạo. Vào những dịp gần tết, bánh đa nem của Thổ Hà làm ra không đủ đáp ứng cho nhu cầu của thị trường. Thời gian bánh bán chạy nhất bắt đầu từ tháng 9 cho đến hết tháng 2 năm sau. Bánh đa nem Thổ Hà mang hương vị thơm man mát, màu trắng ngần vừa thơm, lại vừa dai nên không những có uy tín với khách hàng trong nước mà nhiều chủ đại lý đã đến ký hợp đồng để xuất khẩu sang các nước Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản và rất được những thị trường này ưa chuộng. Tuy nhiên, các hộ dân sản xuất bánh đa nem vẫn còn ở mức nhỏ lẻ, chưa có thương hiệu, bánh đa nem Thổ Hà chưa vào được các siêu thị ở những thành phố lớn.

Ngoài nghề làm bánh đa nem, hiện nay một số gia đình vẫn còn làm nghề nấu rượu, nhưng sản xuất rượu gạo nếp rất ngon và bán với giá cao.


 


Công việc hàng ngày của người dân ngoài lúc làm nghề


Thổ Hà - Quần thể kiến trúc cổ thuần Việt

Thổ Hà còn nổi tiếng với những kiến trúc cổ từ nhà cửa đến cổng làng, khu giếng cổ đều được làm bằng gạch nung và sành đắp nổi không tráng men. Đặc biệt nơi đây còn hiện hữu ngôi chùa cổ kính và ngôi đình bề thế - một kiệt tác của kiến trúc cổ truyền Việt Nam.

 

 


Chút nắng vàng yếu ớt của ngày tàn


Cổng nằm ở ngay đầu làng phía trước đình, bên tả là hồ nước rộng, bên hữu có cây đa hàng trăm năm tuổi mang đậm dấu ấn văn hóa của cư dân đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài ra trong làng vẫn còn lưu giữ được một số ngôi nhà cổ xây dựng cách đây trên 100 năm, tiêu biểu cho các ngôi nhà cổ thuộc đồng bằng Bắc Bộ.


 


Con ngõ nhỏ hẹp cùng với bà cụ đang ngồi hóng mát


Đình Thổ Hà là một ngôi đình nổi tiếng của xứ Kinh Bắc, là bông hoa của nghệ thuật chạm khắc Việt Nam và được xếp hạng là di tích Kiến trúc, Nghệ thuật cấp Quốc gia. Đình được xây dựng vào năm 1692, thời vua Lê Hy Tông và là một công trình kiến trúc quy mô với nghệ thuật điêu khắc độc đáo từng được Viện bảo tàng Viễn Đông Bác Cổ xếp hạng. Ðình thờ thành hoàng làng là Lão Tử và tổ sư nghề gốm Ðào Trí Tiến. Đây là ngôi đình cổ thứ hai ở Bắc Giang (sau đình Lỗ Hạnh được xây dựng năm 1576). Đình Thổ Hà tiêu biểu cho không gian tâm linh, văn hóa của người Việt với nét kiến trúc đặc trưng, các mảng chạm khắc thể hiện đề tài “tứ linh, tứ quý” hoa lá cách điệu, chim thú và con người. Hiện đình còn lưu giữ được chín tấm bia cổ chứa nhiều giá trị nghiên cứu văn hóa, lịch sử.

 

Chùa Thổ Hà có tên là “Đoan Minh Tự” là một di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Chùa xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc, có quy mô lớn, bao gồm cổng tam quan, gác chuông và tiền đường. Tam quan chùa nằm sát sau đình. Gác chuông và tiền đường được chạm trổ lộng lẫy với các đề tài rồng mây, hoa lá… Trong chùa có tượng Phật tổ Như Lai to lớn và tượng Phật bà Quan Âm ngồi trên tòa sen. Từ tòa Tam Bảo theo hai dãy hành lang vào tới Động Tiên, là một công trình kiến trúc hiếm có. Động tiên đã ghi lại đầy đủ hình ảnh Thích Ca từ lúc mới sinh ra, lúc trưởng thành và khi lìa bỏ kinh thành vào động tu hành đến đắc đạo. Tiếp theo đi qua sân rộng tới nhà Tổ, nơi đây thờ Sư Tổ và các vị sư đã trụ trì tại chùa.  


 


Gồ gánh những gánh hàng


Văn chỉ làng Thổ Hà được xây dựng vào thế kỷ 17, thờ Khổng Tử, Tứ Phối và 72 vị tiên hiền… Nơi đây được coi là cái nôi của nền học thức Thổ Hà. Đây cũng là địa điểm thu hút khá đông du khách đến tham quan, nhất là vào mùa thi cử, các sĩ tử đến đây thắp hương, lễ bái với tấm lòng thành kính mong được đỗ đạt hiển vinh. Văn chỉ làng Thổ Hà được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa ngày 28/2/1999.


 


Vẻ đẹp cổ kính, thuần Việt, sự hồn hậu, mến khách của người dân và lợi thế cách không xa trung tâm thủ đô, làng cổ Thổ Hà đã và đang tạo sức hấp dẫn lớn đối với du khách trong và ngoài nước, với những người nghiên cứu về kiến trúc và mỹ thuật, những nghệ sĩ và nghệ nhân đến tham quan và tìm cảm hứng.

 

Bắc Giang: Làng Then - làng Violon

Có một làng ở tỉnh Bắc Giang mà cả làng đều biết chơi đàn Violon. Sau một ngày làm việc mệt nhọc và vất vả thì người dân trong làng lại ngồi với nhau và chơi những bản nhạc để quên đi hết những mệt mỏi, lo toan của cuộc sống đời thường. Vui trong niềm vui với cây đàn.

Trở về từ vòng hai cuộc thi tìm kiếm tài năng Việt, "dàn nhạc giao hưởng" làng của ông Nguyễn Quang Khoa lại tất bật với cuộc sống lao động hàng ngày. Người bận bơm nước ngoài đồng, người luôn tay làm hàng mã cho kịp phục vụ Tết nhưng ai nấy đều phấn khởi vì sắp tới được vào TP HCM tranh tài vòng tiếp theo. Phần biểu diễn trước đó tại Hà Nội của đội ông Khoa nhận được sự ngưỡng mộ và khâm phục của giám khảo cùng khán giả.


 


Người dân làng Then trong chương trình ''Tìm kiếm tài năng Việt"


Đội chơi violin làng Then thành lập được khoảng 10 năm nay, hiện có 11 thành viên chủ chốt đều là nông dân. Trong ký ức của đội trưởng Khoa, các thành viên đều cùng trang lứa và học violin từ năm 14 tuổi (năm 1973). Ngày đó ở làng có ông Nguyễn Hữu Đưa làm nhạc công trong đoàn ca múa nhạc Hà Bắc hay dạy con violin. Các gia đình gần đó thấy vậy cũng gửi con sang học đàn thầy Đưa. Thầy dạy chẳng lấy tiền học sinh, vì vậy đến mùa gặt hay mỗi khi nhà có việc, đám học sinh lại kéo nhau sang nhà thầy làm giúp.

Không biết chơi violon: Không phải dân làng Then!


 


Cổng làng Then - xã Thái Đào - huyện Lạng Giang


Anh Nguyễn Quang Khoa, đội trưởng đội văn nghệ, đồng thời là “nhạc trưởng” giàn nhạc giao hưởng violon làng Then tâm sự với chúng tôi: “Đi biểu diễn với anh em trong đội là một niềm vui rất lớn. Vui vì phong trào văn nghệ đang dần được phục hồi. Trước đây, độ khoảng những năm cuối thập kỷ 60, thế kỷ trước nhà nào cũng có và cũng chơi đàn violon, người nào lớn lên mà không biết chơi violon là không phải dân của làng Then, cả làng có vài trăm chiếc violon, đó là thời huy hoàng nhất của làng Then – làng violon duy nhất ở Bắc Bộ.

Chúng tôi tìm đến nhà “Giáo sư violon” Nguyễn Hữu Đưa – người thầy có công truyền dạy thứ nhạc độc đáo này với con em làng Then khi chiều đã muộn. Ông Đưa vẫn ngồi đó, cạnh những chiếc đàn violon treo trên tường nhà. Ông đang say sưa lần dở những bản nhạc mới sưu tầm được, vừa kéo đàn, vừa “ngẫm” nhạc. Tuổi đã ngoài thất thập, mái đầu điểm bạc nghiêng nghiêng bên cây đàn, bên bản nhạc, lúc đó mới thấy “độ” say đàn, say nhạc violon của ông Đưa còn nồng nàn không kém gì lớp trẻ trong đội văn nghệ làng Then. “Tôi đã già rồi, nhưng vẫn muốn truyền dạy cho con cháu, anh em trong làng những kinh nghiệm về kéo đàn violon. Lớp học đàn vẫn được tôi mở đều đặn. Nhưng chỉ tranh thủ mùa hè là chủ yếu, vì con cháu còn bận đi học văn hoá ở trường. Tôi vẫn mong muốn dạy được thật nhiều, không chỉ con em trong làng Then mà cho những ai yêu thứ nhạc này…”


 


Người dân làng Then trong dịp lễ kỷ niệm


Những nhạc công làng Then đã chế tác thành công nhiều nhạc cụ dân tộc khác để hoà tấu cùng cây đàn violon. Anh Nguyễn Hữu Thi, một “nhạc công” cứng trong “giàn nhạc giao hưởng” của làng Then đã tự mình mày mò chế tạo thành công chiếc đàn ghi ta bằng điện. Anh khoe: “Tự tôi làm lấy cả, từ thân đàn, con ngựa, hộp đàn, dây kéo, ổ kích âm… Hình dáng tôi tự học trên… ti vi. Nhưng mà nghe “ngon” lắm.” Nói rồi, anh Thi lên dây đàn, hướng về phía anh Khoa, hai người cùng nhau hoà tấu một bản nhạc vừa mới biểu diễn trong hội làng Thôn Tằng, Thôn Tiến làng trên cho chúng tôi nghe. Tiếng đàn ghi ta điện hoà âm cùng violon nghe thật lạ, thật vui tai.


Do phải lưu diễn nên ông Đưa chỉ dạy được bọn trẻ những ngày cuối tuần. Tuần này ra bài cho học sinh, tuần sau ông về kiểm tra hoặc có khi cả tháng mới về dạy được. Nhắc tới thầy, cậu học trò khóa đầu của lớp violin ấy xúc động nhớ lại: "Lúc đó, các nhà cho con học theo phong trào, không xác định học để làm gì. Giá mỗi cây violin hồi ấy là 200 đồng. Có nhà phải bán cả trâu, lợn để đủ tiền mua đàn".

Mặc dù thỉnh thoảng mới được học đàn nhưng ai nấy trong lớp ông Khoa đều hăng say tập luyện vì sợ thua kém bạn bè. Được thầy giao bài, những hôm sáng trăng, các "nhạc công" nhí lại mang vĩ cầm ra bụi tre kéo để khỏi làm ảnh hưởng tới hàng xóm. Ông Khoa kể, từ đầu làng đã nghe tiếng violin ngân nga, đi một đoạn lại thấy âm thanh ấy phát ra từ nhà ai đó. Mới đầu là học nhạc lý theo giáo trình của Pháp, sau đó học sinh như ông Khoa được thực hành những bài dễ.
Theo đội trưởng này, chơi violin không giống các loại nhạc cụ khác như đàn organ hay piano. Cái khó nhất của vĩ cầm chính là tập để định được âm thanh (các nốt nhạc), điều đó chỉ được thuần thục khi nghe và tập luyện nhiều. Trước khi đánh, nhạc công phải căng dây chuẩn. Những ngày đầu học, lớp ông chỉ tập theo bản nhạc trên giấy và mất vài tháng mới định được nốt nhạc nên đánh phô thường xuyên. "Để tiếng đàn ngọt và có hồn ngoài việc luyện tập siêng năng cần phải hiểu ý đồ của tác giả cũng như nắm được nội dung của đoạn nhạc này là gì", vị nhạc trưởng chia sẻ.

Học violin một thời gian, năm 1978 lứa học sinh như ông Khoa đi bộ đội phục vụ trong đoàn nghệ thuật của Bộ tư lệnh. Chính trong thời gian ấy, các tay kéo vĩ cầm của làng Then có cơ hội học hỏi từ những nghệ sĩ có chuyên môn và giỏi nghề. Ông Khoa kể, những lần giao lưu với nhạc công trung ương, các ông thường tranh thủ "học lỏm" rồi tự mày mò. Có kiến thức cơ bản, giờ là lúc họ hoàn thiện tay nghề. Tuy nhiên, sau đó đoàn của ông không được phát triển theo hướng chuyên nghiệp nên dần dần tan rã. Các thành viên cũng rời quân ngũ trở về quê hương.

Cuộc sống khó khăn nên không ai có thời gian nhớ đến vĩ cầm. Những cây đàn trước đó mua cũng bị thất lạc, hỏng hóc do không được sử dụng. Chục năm gần đây khi kinh tế đã khá giả hơn, những học sinh lớp violin ngày trước mới nối lại sợi dây tình cảm với vĩ cầm. Giờ họ đã có tuổi và đều lên chức ông nội, ngoại nhưng niềm say mê tiếng violin lại trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đã lâu không kéo đàn, thời gian đầu, hầu hết đều ngượng nghịu, tiếng đàn cứng. Để có đàn chơi, họ phải mượn hoặc chắp vá từ hai, ba chiếc hỏng.


 


Cùng kéo những chiếc đàn đầy âm sắc


Ông Khoa chính là người đứng ra kêu gọi mọi người thành lập dàn nhạc giao hưởng làng. Ban đầu, các nhạc công nông dân chỉ chơi cho vui những lúc nông nhàn, sau mang đi biểu diễn khắp nơi và trở thành "đặc sản" mang thương hiệu làng Then.

Ngồi giữa căn nhà chất ngổn ngang đồ hàng mã, ông Khoa hào hứng khoe: "Nhiều đài truyền hình nước ngoài cũng làm chương trình về dàn nhạc của chúng tôi. Không ít Việt kiều đọc được thông tin đã về tận làng Then để kiểm chứng và họ thực sự bất ngờ khi chuyện đó có thật. Điều ấy khiến chúng tôi hạnh phúc và tự hào". 
Những lúc có lời mời, các thành viên trong dàn nhạc đều gác lại việc nhà và xách đàn đi diễn. Dù tiền công chẳng đáng là bao, đôi khi không có nhưng các nhạc công vườn vẫn nhiệt tình. Nhạc trưởng Khoa tâm sự, có chương trình quay xong chỉ nhận được chưa đầy 2 triệu, không đủ chia cho 11 người. Họ đành lấy số tiền ấy liên hoan một bữa và "về nhà chỉ cười xòe với vợ". Vì tất cả đều là trụ cột kinh tế trong gia đình nên họ phải chu toàn việc nhà trước khi vác đàn đi chơi. Một số người đã truyền niềm đam mê đàn cho con cái như ông Khoa. Trong bốn người con của ông có hai đứa theo học âm nhạc.

Mới đây nhận được lời mời của cuộc thi Tìm kiếm tài năng Việt, dàn nhạc của ông Khoa kéo nhau lên tận Lạng Sơn thay vì xuống Hà Nội thi vòng loại để tránh rủi ro. Phần biểu diễn ở vòng tiếp theo, đội làng Then chơi bản nhạc tủ cho chắc ăn. Dù được ban giám khảo đánh giá cao nhưng bản thân nhạc trưởng vẫn cảm thấy chưa hài lòng và nghĩ đội mình có thể làm tốt hơn.

"Anh em trong đội phấn khởi và rất quyết tâm, nhưng ai cũng lo cho lần vào TP HCM tới đây. Đội đang chọn bài và mời thầy về giúp đỡ. Càng lọt vào vòng trong càng cần cố gắng", ông Khoa nói.

Trong giọng nói của người nông dân này, ngoài niềm vui, tự hào còn vấn chút trăn trở. Ông bảo muốn phát triển đội hơn nữa nhưng ngặt nỗi kinh tế. Để đi theo hướng chuyên nghiệp, ông tính cần mời thầy về dạy và tổ chức show hoành tráng. Ở làng ông có hơn 100 người từ già lẫn trẻ biết chơi violin nhưng con số ấy đang dần mai một. Ông cũng đang khơi dậy tình yêu vĩ cầm cho thế hệ trẻ bằng việc mở lớp dạy các em nhỏ trong làng. 

Sẽ còn có nhiều con em của làng Then, từ cổng làng bước đến những giảng đường đại học và thành danh chốn đô thành nhưng những bài học âm nhạc chốn làng quê của các ông nghệ sỹ vĩ cầm nông dân thì mãi là hành trang, là kho kiến thức vô giá giúp họ gặt hái nhiều thành công.

Hoàng hôn về, mang theo một ít gió se se lạnh của miền sơn cước rủ xuống những ngôi nhà làng Then. Bên đống rạ chiều chưa kịp dọn tiếng vĩ cầm vang lên chứa trong đó tiếng chảy êm đềm của dòng sông Thương thơ mộng, tiếng lao xao của lớp lá khô sau vườn, mùi ngai ngái của những cánh đồng đang phơi ải, mùi thơm của khói bếp chiều thu. Bức tranh ấy, khác, rất khác với bức tranh vĩ cầm giữa phố phường, trong những căn nhà sang trọng những nhà hát lớn và cũng vì thế nó khiến người ta thích thú.

 

6 loại bánh ngon miệng cho ngày mưa

Trong cái se lạnh của buổi chiều mưa Sài Gòn, bánh xèo, bánh đúc, bánh căn... là những món ăn ngon mà bạn khó có thể cưỡng lại.

1. Bánh xèo miền Trung




Không hấp dẫn người ăn bởi màu vàng tươi của bột nghệ, cũng không có cái vị béo đặc trưng của nước cốt dừa như bánh xèo miền Nam, bánh xèo miền Trung có cái màu trắng đục của bột gạo, với những con tôm đỏ tươi bên trong thật hấp dẫn.
Không chỉ thơm ngon, nóng hổi, bánh xèo miền Trung còn chinh phục người ăn bởi sự phong phú của nước chấm. Ngoài chén nước chấm chua ngọt như cách ăn của người miền Nam, còn có chén nước chấm mắm nêm được pha đậm đà, vừa ăn hay chén nước chấm pha với đậu phụng thơm ngon và có vị hơi béo. Chiếc bánh nhỏ, nóng hổi và giòn rụm, các loại rau ăn kèm phong phú như rau cải, xà lách, diếp cá, tía tô, húng thơm, húng quế... làm cho bạn cảm thấy ấm áp hơn trong thời tiết se lạnh của ngày mưa.
Địa chỉ: 62 Trần Quang Khải (quận 3); 570 Lê Quang Định (quận Gò Vấp); 274 Trần Não (quận 2)....

2. Bánh xèo Nam bộ




Bánh xèo miền Nam thường được gọi là bánh xèo chảo vì được đổ trong những chiếc chảo lớn. Bánh được tráng một lớp mỏng, giòn chứ không dày như bánh xèo miền Trung. Bánh xèo đổ đúng điệu phải có tiếng kêu "xèo" khi vừa cho bột vào nên phải đợi chảo thật nóng, cho dầu ăn, chờ dầu sôi mới đổ bánh. Khi bánh chín gấp đôi lại, đặt bánh lên cái đĩa có lót lá chuối để khỏi dính. Bánh ăn kèm với rau xà lách, cải bẹ xanh, rau thơm các loại và nước chấm chua ngọt.
Địa chỉ: 103 Ngô Quyền, (quận 5); 211 Lũy Bán Bích (quận Tân Phú); 10A đường 3/2 (quận 10)...

3. Bánh căn miền Trung




Không được bán nhiều ở Sài Gòn, chủ yếu tập trung các quận vùng ven như Bình Thạnh, Gò Vấp, Thủ Đức... nhưng những hàng bánh căn ở đây vẫn thu hút rất đông thực khách vào giờ tan tầm. Những chiếc bánh vàng ươm, nóng hổi được chan ngập nước chấm, ăn kèm với các loại rau luôn có một sức hút khó có thể chối từ đối với thực khách.
Địa chỉ: 154 Nguyễn Đình Chính (quận Phú Nhuận); 19 Trương Định (quận 3); 62 Trần Quang Khải (quận 1); 989 Hoàng Sa (quận 3); 570 Lê Quang Định (quận Gò Vấp)...

4. Bánh khọt Vũng Tàu




Chiếc bánh có hình dáng như bánh căn của người miền Trung, cũng được làm từ bột gạo, nhưng khác ở chỗ có nhiều loại nhân và chỉ đổ với nhân tôm. Bánh khọt được đổ trong những chiếc mâm bằng nhôm hoặc bằng inox, bên trên bề mặt khuôn được tạo hình lõm nhỏ bằng chiếc bánh. Khi bánh vừa chín, gắp bánh ra đĩa, rắc lên bề mặt một ít tôm cháy, mỡ hành. Cách ăn bánh khọt gần giống với cách ăn bánh xèo của người miền Nam, lấy một lá cải xanh, một lá xà lách, bên trên là các loại rau như diếp cá, đu đủ thái sợi, húng thơm... gắp một cái bánh khọt lên, cuốn tròn lại chấm vào nước chấm.
Địa chỉ: 38 Nguyễn Văn Trỗi (quận 3); góc đường Bà Huyện Thanh Quan - Ngô Thời Nhiệm (quận 3); 59B Cao Thắng (quận 3)...

5. Bánh đúc 




Bánh đúc là món ăn nhà quê gắn liền với ký ức tuổi thơ của nhiều người. Trong những ngày mưa hay những buổi chiều trở gió, ăn chén bánh đúc cũng làm ta thấy đủ no. Miếng bánh mềm dẻo trong miệng, cảm nhận hương vị thân quen của bột gạo ngon, vị đậm gần gũi của thịt, vị mặn, chua, cay của gia vị. Bánh mềm, nhân thơm và nước mắm ngon, tất cả hòa quyện thật nhuần nhuyễn, một vị ngon khó tả... và điều quan trọng là bạn không cảm thấy ngán.
Địa chỉ: 116/11 Phan Đăng Lưu (quận Phú Nhuận); cổng chính chợ Bàn Cờ, Nguyễn Đình Chiểu (quận 3); trước nhà thờ Hòa Hưng, Tô Hiến Thành (quận 10; SB10-1 Lô S 18-1 khu phố Nam Khang, Nguyễn Lương Bằng, (quận 7)

6. Bánh bèo chén



  
Từng chén bánh bèo hấp dẫn với màu trắng của bột gạo, màu vàng rộm của tôm cháy ăn kèm với chén nước mắm ngọt cay xé lưỡi đúng chất Huế. Nguyên liệu chính để làm bánh là bột gạo. Muốn chiếc bánh bèo dẻo, mềm và thơm ngon, người làm bánh phải chọn loại gạo còn thơm hương lúa mới. Gạo vo sạch, ngâm nước trong nhiều giờ trước khi đem xay. Gạo sau khi xay thành bột mịn, người thợ pha vào một ít nước lọc để bột lỏng nhưng vẫn giữ được độ dẻo nhất định. Bột được chế vào từng chén và đem hấp chín.
Địa chỉ: 45C Kỳ Đồng (quận 3); 43 Rạch Bùng Binh (quận 3); 83 Thạch Thị Thanh (quận 1); 351/149 Lê Văn Sỹ (quận 3)...
(Nguồn: Mytour.vn)