Thứ Tư, 23 tháng 10, 2013

Làng nghề của tỉnh Đồng Nai ngày càng phát triển

Làng nghề Việt Nam, không chỉ mang sắc thái và giá trị văn hóa của địa phương, hay ngành đó mà còn là niềm tự hào của dân tộc, điều đó càng thúc đẩy càng làng nghề phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Du lịch gắn với làng nghề ở Đồng Nai tuy hình thành chưa lâu, song bước đầu cũng đã tạo được sức hấp dẫn.

Kết nối du lịch với làng nghề truyền thống
 
Theo đề án khôi phục và phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống tỉnh Đồng Nai, các làng nghề có khả năng kết nối với du lịch như: Làng gốm dọc theo bờ sông Đồng Nai đọan qua xã Bửu Hòa, Tân Vạn (TP.Biên Hòa) là làng gốm được hình thành trên 100 năm nay. Năm 2005 làng gốm có 39 doanh nghiệp, 01 hợp tác xã và 54 hộ cá thể sản xuất gốm mỹ nghệ, đa dạng và xuất khẩu chiếm hơn 80%; làng chế tác đá Bửu Long…


 


Đây có thể coi  là hai làng nghề có kết hợp với Cù lao Ba Xê, Cù Lao cỏ, Cù Lao Hiệp Hòa và các tài nguyên du lịch nhân văn khác như khu du lịch Bửu Long, Văn Miếu Trấn Biên, đến thờ Nguyễn Hữu Cảnh… để phát triển tuyến du lịch sông Đồng Nai. Măc dù, sự tồn tại của các cơ sở sản xuất kinh doanh gốm thủ công mỹ nghệ không còn là những làng nghề đúng nghĩa với điều kiện thực tế, nhưng vẫn còn khả năng khôi phục và tái tạo lại những giá trị truyền thống, những giá trị này sẽ ngày càng được củng cố và giữ gìn khi được kết hợp đưa vào phát triển cùng với du lịch.

Dọc theo sông Đồng Nai về phương Bắc, làng bưởi Tân Triều từ lâu đã nổi tiếng về đặc sản “Bưởi Tân Triều” với hương vị ngon đặc trưng, chỉ có được khi trồng tại chính vùng đất Bến Cá, xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu. Ngoài bưởi, tại đây còn có lọai đặc sản khác mà nếu không phải là dân địa phương chắc ít ai biết đến, đó chính là bắp nếp Tân Triều. Trong đó nổi bật là điểm du lịch sinh thái Vườn – Làng bưởi Tân Triều đã phục vụ khách du lịch đến tham quan quy trình trồng bưởi, chế biến rượu bưởi, các món đặc sản bưởi, tổ chức chương trình biểu diễn đờn ca tài tử phục vụ khách du lịch và DNTN quê hương bưởi Tân Triều đã đăng ký thương hiệu bưởi, đồng thời tổ chức tiêu thụ đặc sản bưởi thông qua các cửa hàng bán lẻ.

Với sản phẩm được tận dụng từ gỗ vụn phế thải tại làng Trà Cổ, xã Bình Minh thuộc huyện Trảng Bom đã nổi tiếng với những đồ gỗ mỹ nghệ xuất khẩu như thuyền buồm, máy bay, ô tô, xích lô… Đặc trưng là Cơ sở sản xuất Thành Nhân đã xây dựng phòng trưng bày sản phẩm có thể phục vụ khách du lịch đến tham quan quy trình chế tác sản phẩm và mua làm quà lưu niệm.

Về thượng lưu sông Đồng Nai là huyện Tân Phú, nơi có người bản địa Châu Mạ ở xã Tà Lài được biết đến với với nghề dệt thổ cẩm. Vải thổ cẩm được may thành áo, bóp, túi xách… chào bán cho khách du lịch từ Vườn Quốc gia Cát Tiên hay được khách từ Lâm Đồng, Bình Phuớc đến đặt hàng. Đặc biệt là đồng bào ở đây rất chú trọng đến việc truyền nghề cho thế hệ sau….

Làng nghề truyền thống - phát huy để bảo tồn

Theo báo cáo kết quả tham gia hội chợ ITE HCMC 2008 mà Sở VHTT&DL Đồng Nai đã phối hợp với doanh nghiệp kinh doanh du lịch và các cơ sở làng nghề trên địa bàn như Cơ sở Thành Nhân (đồ chơi bằng gỗ), cơ sở du lịch sinh thái Vườn – Làng bưởi Tân Triều (sản phẩm bưởi trái và rượu bưởi), đồ thổ cẩm của đồng bào dân tộc Mạ thì có nhiều doanh nghiệp, du khách trong và ngoài nước muốn mở cửa hàng, đại lý để phân phối và tiêu thụ sản phẩm bưởi và rượu bưởi Tân Triều, hàng lưu niệm bằng gỗ. Ngoài ra, nhiều du khách trong và ngoài nước đề nghị các đơn vị lữ hàng đưa tham quan trực tiếp quy trình chế biến đặc sản rượu bưởi và bưởi, tham quan nghệ nhân làm hàng lưu niệm gỗ mỹ nghệ của cơ sở Thành Nhân.

 

 


Theo định hướng phát triển du lịch sinh thái và văn hóa trên cơ sở phong phú và đa dạng của tài nguyên du lịch thiên nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn là định hướng mang nhiều yếu tố tích cực, linh hoạt. Một mặt, thông qua việc đưa thêm vào các yếu tố nhân văn sẽ góp phần nâng cao và tạo điều kiện thuận lợi việc bảo vệ, giữ gìn các giá trị văn hóa. Hiện nay, trong điều kiện du lịch được Nhà nước xem là một ngành kinh doanh với mức độ hỗ trợ về mặt ngân sách có hạn, chỉ dừng lại ở việc đầu tư các công trình hạ tầng trọng điểm để tạo điều kiện cho việc khuyến khích mời gọi đầu tư khai thác, thì việc xã hội hóa du lịch để phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế tham gia là yếu tố mang tính chiến lược. Do đó, định hướng và quan điểm của tỉnh về phương thức phát triển cho làng nghề kết hợp với du lịch cũng không nằm ngoài ý đó.

Bà Võ Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Du lịch Đồng Nai cho biết: Trước mắt sẽ phối hợp cùng với các Sở, ngành, các đơn vị, cơ sở kinh doanh liên quan hình thành và đưa các làng nghề kết hợp với các điểm du lịch đi vào họat động. Để thuận lợi hơn trong việc hình thành các tour du lịch, ngành du lịch đã chọn ra các làng nghề gốm, gỗ mỹ nghệ, dệt thổ cẩm. Đó là các điểm : HTX gốm Thái Dương, Cơ sở du lịch sinh thái làng – vườn bưởi Năm Huệ, cơ sở Thành Nhân, làng dệt thổ cẩm Tân Phú. Trong đó, Cơ sở sinh thái Vườn – Làng bưởi Năm Huệ đã đi vào khai thác, phục vụ du khách, các điểm còn lại ở dạng tiềm năng, chưa đầu tư đúng mức.

Bà Trang còn cho biết thêm, hình thức phát triển làng nghề gắn với du lịch vẫn đang rất cần một cách làm chuyên nghiệp hơn. Theo đó, giữa các ngành liên quan cần có sự phối hợp chặt chẽ để xây dựng một quy hoạch cho làng nghề. Không dừng lại ở đó, bản thân người dân làng nghề phải ý thức hơn nữa về giá trị của việc gắn kết với du lịch để cùng phát triển.

Đó cũng là điểm đáng mừng cho làng nghề của Đồng Nai nói riêng và làng nghề Việt Nam nói chung. Phát triển làng nghề không chỉ đơn giản là phát triển nghề đó mà đồng thời cũng là giữ gìn bản sắc dân tộc Việt, mang lại giá trị kinh tế cao, giải quyết vấn để việc làm cho nhiều lao động và phát triển hơn nữa về ngành du lịch hiện nay.

 

Chè Lam thơm ngon tại Thạch Xá, Hà Nội

(Mytour.vn) - Bánh chè lam là món bánh đặc sản Hà Nội được làm theo phương thức gia truyền của làng nghề truyền thống tại Thạch Xá- Thạch Thất- Hà Nội với các nguyên liệu tự nhiên như thóc nếp cái hoa vàng, lạc, vừng, gừng, đường...tạo thành món bánh thơm bùi, dẻo ngọt mang đậm hương vị quê nhà.

Chùa Tây Phương không chỉ lộng lẫy vì vẻ kiến trúc tuyệt với với những pho tượng La Hán bề thế mà còn nổi tiếng với món chè lam Thạch Xá. Thăm viếng cảnh chùa xong ngồi bục thềm sân chùa nghỉ ngơi mà được vài thanh chè lam nhấp nháp với nước chè nóng thì thực mê hồn khoái khẩu.

 

 
Giống chè tươi vùng bán sơn địa, trên đất màu dưới là đá ong có một hương vị đặc biệt: chát, thơm, ngọt, đậm. Chè càng lưu niên hương càng thơm nước càng xanh. Uống càng đặc càng ngon nhất là chè nấu bằng nước giếng đá ong thì càng tuyệt. Nhiều lão nông tỉnh Sơn bảo rằng: sáng ra chẳng cần cơm cháo gì, chỉ cần có một bát nước chè cắm tăm là có thể cày cả buổi không mệt. Còn thanh chè lam thơm mùi mật mía, nức mùi nếp cái hoa vàng, mùi gừng tươi, vừa ngọt thanh vừa thoáng chút cay vừa bùi vị lạc, thơm ngon. Từ từ nhâm nhi, thong thả uống hớp nước chè tươi, mùa hè có thể giải toả hết cái nóng nung, mùa đông thấy bụng dạ nóng ấm ran.

Ngoài cổ tự Tây Phương, đến Thạch Xá, du khách còn được thưởng thức một đặc sản nổi tiếng nữa, đó là chè Lam. Chè Lam thì trên cả nước có cả trăm địa phương cũng làm và biết làm, nhưng tất cả đều phải nhường ngôi "đệ nhất" cho chè Lam Thạch Xá.

Nghề làm chè Lam ở Thạch Xá có từ bao giờ? Và nó là tác phẩm của người địa phương hay được du nhập từ nơi khác đến? Không ai có thể trả lời chính xác được, kể cả những cụ già tuổi ngoại 90 như cụ Đỗ Thị Thêm cũng chỉ biết: "Ngày còn bé lũn cũn, tôi đã thấy ông bà tôi, bố mẹ tôi làm chè Lam rồi.

Nhưng ngày ấy người ta không làm nhiều, làm lớn rồi bán khắp nước như bây giờ, mà chỉ làm ít rồi cho vào thúng, vào mẹt quẩy đi bán các chợ. Xa lắm thì đến phủ Quảng (huyện Ba Vì), phủ Quốc (huyện Quốc Oai) hay Hà Đông,Hà Nội là cùng...".

Nguyên liệu làm chè Lam, tất cả đều là nông sản: Thóc nếp, lạc, vừng, gừng, quế, mật mía, mạch nha... Thế nhưng không khéo tay, không cần cù, không dồn hết tâm trí vào đó thì cũng không thể nào làm nổi bánh chè Lam ngon.

Thóc nếp phải là nếp cái hoa vàng, nếp hương hay nếp nhung, hạt to, đều và mẩy. Thóc phơi không được non quá hay già quá. Thóc ấy cho vào rang cho nổ thành nẻ. Thoạt nhìn, cứ tưởng cái khâu đầu tiên này là dễ, nhưng sự thực thì ngược lại.

Già lửa một tý, thóc sẽ cháy, nẻ vàng và không thơm. Non lửa chút xíu, thóc không nở thành nẻ được hay chỉ nứt ra, cũng hỏng. Phải cho lửa thật vừa, đảo thóc thật khéo, thật đều tay để hạt thóc nở thành những hạt nẻ màu trắng như hoa nhài, trăm hạt ngàn hạt đều tăm tắp như nhau.

Rang thóc thiện nghệ nhất, phải kể đến những "nghệ nhân" như Nguyễn Huy Thạch, Nguyễn Huy Hiến, Nguyễn Huy Đông... Bỏ vỏ trấu đi, hạt nẻ ấy cho vào xay thành một thứ bột trắng tinh khiết và mùi thơm ngát. Trước đây có người đã thử dùng thóc nếp xay thành gạo, đem nổ thành bỏng rồi xay, làm thế nhanh hơn nhưng không đạt yêu cầu về hương vị, đành bỏ.

Mía dùng kéo mật thường là mía de, loại mía nhỏ cây nhưng vị ngọt vừa thanh vừa đậm và rất thơm. Mạch nha nấu từ mầm thóc. Lạc được chọn lựa cẩn thận, rang chín, xát hết lớp vỏ áo và chà cho những nhân lạc tách làm đôi. Vừng cũng được rang chín. Gừng phải là gừng già, thái lát rồi ép lấy nước.

Cho mật mía, mạch nha vào nước gừng, nước quế nấu lên cho đến khi được một hỗn hợp trong suốt, có một mùi thơm tổng hợp của quế, của gừng, của mật và có một vị ngọt thật thanh. Khâu thứ hai này cũng không hề đơn giản một tý nào. Không cao tay nghề, mật và mạch nha hoặc sẽ bén đáy nồi, cháy khét, hoặc sẽ vón lại thành cục còn nước thì lõng bõng...

Có được thứ hỗn hợp như ý rồi, mới cho bột và lạc vào, quấy đều trong chảo cho đến khi bột ngấm đủ thứ nước hỗn hợp kia thành một khối chè Lam ngon, không khô quá mà cũng không nhão quá, chờ chè nguội mới cắt thành thanh.

Không được cho hết bột vào mà bao giờ cũng phải để lại một ít bột làm "bột áo" phủ bên ngoài để chống dính. Tuỳ theo yêu cầu của khách, có thể cho bánh chè lam lăn qua vừng. Chè Lam truyền thống chỉ có các nguyên liệu trên.

Ngày nay, theo yêu cầu của thị trường, người Thạch Xá còn sáng tạo thêm loại chè Lam có thêm thịt rán. Thịt phải là loại thịt nạc săn chắc, lọc kiệt mỡ rồi mới rán để khi cho vào, bánh chè vẫn dẻo. Nếu không, bánh chè sẽ bị đọng mỡ, nước từ thịt tiết ra sẽ làm bánh chè rất nhanh hỏng.


 


 
Ngày Tết, hầu như nhà nào ở Thạch Xá cũng làm một mẻ chè Lam để ăn và để đãi khách. Còn sản xuất, kinh doanh chè Lam quanh năm để bán đi khắp nước thì ở Thạch Xá có tới trên 50 hộ, mỗi hộ một năm cũng sản xuất ít nhất 2-3 tấn, có những hộ như hộ Nguyễn Huy Đông mỗi năm bán tới 4-5 tấn chè Lam, thu lãi hàng trăm triệu đồng.

Năm 2004, Thạch xá đã được UBND tỉnh Hà Tây (cũ) công nhận là làng nghề truyền thống. Mới đây, tháng 11/2012, UBND xã Thạch Xá đã xây dựng dự án "Hỗ trợ nhân rộng mô hình chế biến bánh chè Lam xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, TP Hà Nội", với sự phối hợp của Phòng Kinh tế huyện Thạch Thất.

Cũng ngay trong tháng 11/2012, được sự chỉ đạo của Sở NN-PTNT TP Hà Nội, một lớp tập huấn nhân rộng cơ sở sản xuất bánh chè Lam do UBND xã và Phòng Kinh tế huyện tổ chức, đã thu hút hàng chục người tham gia.
Cũng từng ấy thứ nguyên liệu, cũng cách làm ấy thế mà chè lam các nơi khác vẫn không sao bằng. Chè lam Thạch Xá. Có lẽ do đất này có giống gạo nếp cải hoa vàng mang một hương vị riêng hay là còn một bí quyết nào khác ở đôi tay đôi mắt của người làm chè lam cũng như kẹo gương xứ Quảng hay mè xửng cố đô Huế có nơi nào khác cạnh tranh nổi đâu.

Chè Lam làng Lủ ven sông Tô (Hà Nội) cách Hà Tây có bao xa thế mà phải thua chè lam Thạch Xã mặc dù cách làm cũng rất công phu nhưng hình thù lại xa lạ, thứ vuông thứ tròn không phong không gói như chè lam Thạch Xá. Vậy điều gì đã làm cho chè lam láng Lủ không nổi dậy tiếng tăm? Câu trả lời có lẽ chỉ người làng Thạch Xá mới làm sáng tỏ được, nhưng đã chắc gì còn chuyện bí mật nhà nghề nữa chứ!

(Nguồn:Mytour.vn)

Không phát triển được, nhiều làng nghề nên tập trung làm du lịch

Hiện nay có khá nhiều các làng nghề tại Việt Nam đang cố gắng giữ gìn bản sắc làng nghề của quê hương nhưng nó đã không còn phù hợp với thị trường hiện nay nên đã không thể thắng được trong các thị trường khác. Nên hãy tìm những kỷ vật của làng nghề để làm du lịch cho các tour phục vụ làng nghề.

Làng nghề nào không trụ được với cơ chế thị trường mà chỉ là danh tiếng trong lịch sử, trong ký ức thì chỉ nên giới hạn trong việc sưu tập hiện vật phục vụ cho công tác bảo tồn bảo tàng, phục vụ các tour du lịch làng nghề. Đó là vấn đề đặt ra sau Festival Nghề truyền thống Huế năm 2013. 


 


Đó là vấn đề đặt ra sau Festival Nghề truyền thống Huế năm 2013.

Nhiều chuyên gia cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, mỗi một địa phương cần xác định cho được nghề gì là đặc trưng, là thế mạnh, là lợi thế so sánh để có định hướng đúng trong bảo tồn và phát triển, không thể bảo tồn phát triển tràn lan. 
Có những làng nghề du lịch chỉ mở ra những cơ hội để bảo tồn chứ không để phát triển thành kinh tế hàng hoá, vì không đủ sức cạnh tranh với sản phẩm của các làng nghề khác cùng chủng loại, nhưng có đẳng cấp cao hơn.


 


Cần xác định rõ du lịch làng nghề là một sản phẩm vì lợi ích của cả cộng đồng. Người dân vùng cầu ngói Thanh Toàn ở thị xã Hương Thủy (TT-Huế) không ai no đủ với nghề làm nông cụ phục vụ du lịch, nhưng với phiên Chợ quê ngày hội, những mặt hàng nông cụ do chính người dân sở tại chế tác đã trở thành một sản phẩm đặc thù, góp phần hình thành thương hiệu du lịch Chợ quê.

Tương tự, lò gốm cổ Phước Tích, ở huyện Phong Điền (TT-Huế) được phục hồi đã góp phần quan trọng tạo dựng thương hiệu tour Hương xưa làng cổ, chứ không thể làm giàu cho cả làng với sản phẩm gốm của vài chàng thợ trẻ cơm đùm gạo bới ra học nghề ở Bát Tràng trở về.
Bởi chính gốm Bát Tràng nhiều lúc cũng phải chao đảo trước sự trỗi dậy của gốm Chu Đậu, trước sự bành trướng của dòng gốm rực rỡ đến từ Cảnh Đức Trấn bên Trung Quốc.

Thực tế những năm qua, dù được đầu tư nhiều trăm triệu đồng để phục hồi nhưng lò gốm cổ Phước Tích cũng chỉ đỏ lửa được vài ngày trong dịp Huế tổ chức Festival. Vì thế, lò gốm cổ Phước Tích nên dừng lại ở nhiệm vụ bảo tồn bảo tàng và phục vụ lễ hội, du lịch, nhiều chuyên gia nhận định.


 


Lỏng lẻo giữa du lịch và làng nghề

Nhiều tour du lịch làng nghề đang giống như là một hiện tượng có tính tự phát. Giữa ngành du lịch và các làng nghề ở Huế ít thấy sự hợp tác tích cực trong chia sẻ trách nhiệm đầu tư và lợi nhuận. Riêng ngành du lịch thiên về khai thác nhiều hơn, đầu tư không đáng kể.

Điều này ở Trung Quốc, ở Thái Lan người ta làm rất bài bản. Nếu qua Vân Nam, một tỉnh nghèo của Trung Quốc, sẽ tận thấy các tour được kết hợp rất chặt chẽ giữa tham quan, ăn ở cho đến mua sắm.
Từ trên xe các hướng dẫn viên đã rất có ý thức trong việc tranh thủ thời gian để giới thiệu về các điểm đến, các phong tục, tập quán, sản phẩm hàng hoá của địa phương. Họ rất khéo léo trong việc kết nối các cơ sở dịch vụ vào lộ trình của mỗi ngày.

Tới Thái Lan, nếu từ Bangkok đi Pataya, và ngược lại, điểm đến của tour, du khách sẽ tham gia ngoài vườn Noong Nooc, trại nuôi cá sấu, trại nuôi rắn, có cửa hàng vàng bạc đá quý. Các điểm đến này đồng thời cũng là một trạm nghỉ đạt chuẩn, có phục vụ nước uống miễn phí, có các khu nhà vệ sinh sạch sẽ; nhân viên phục vụ rất niềm nở, chu đáo; khách đi theo tour khi mua hàng được giảm giá.

 Huế chưa có những làng nghề, những trung tâm giới thiệu sản phẩm, bán hàng lưu niệm đạt chuẩn như thế. Và cũng ít thấy những hãng lữ hành, những hướng dẫn viên có trách nhiệm với các đối tác như thế. Đó là do sự liên kết còn lỏng lẻo giữa ngành du lịch và các đối tác, trong đó có làng nghề.

 

Bánh Việt - dọc miền đất nước

Đặc sản bánh Việt nhiều vô kể. Chỉ riêng mối tỉnh, thành phố đến mỗi làng đều có món bánh truyền thống riêng của mình.

Bánh Khẩu Sli – Cao Bằng

  


Cái tên bánh khẩu sli nghe lạ lạ vui tai khiến nhiều người nghe lần đầu tò mò. Khẩu sli thường có hình dáng to bằng viên gạch đỏ, lớp trên là lạc màu nâu bóng mượt , lớp dưới là bỏng gạo mịn màng. Qua nhiều công đoạn chế biến, hai lớp bánh dính chặt lấy nhau, ăn giòn tan, dẻo quẹo lại có vị bùi ngọt khiến cho nhiều du khách ăn một miếng mà vấn vương mãi cái hương vị lạ lẫm đó.

Bánh Đậu Xanh - Hải Dương



 
Bánh đậu xanh Hải Dương dường như không mấy xa lạ với nhiều người bởi tính phổ biến rộng rãi của loại đặc sản này. Bánh đậu xanh Hải Dương ăn có vị ngọt thanh, vừa bỏ vào miệng là tan biến ngay nhưng đủ để người ăn kịp thưởng thức được vị ngọt, béo và thơm thoang thoảng mùi hương hoa bưởi, đậu xanh.

Bánh gio/ bánh tro - Bắc Giang




 
Khi lớp lá cuối cùng được bóc ra, chiếc bánh như một khối ngọc màu hổ phách trong vắt lộ ra, có thể nhìn thấu bên trong khối ngọc đó từng hạt gạo nếp nhỏ óng ánh. Khi ăn, chấm bánh vào bát mật mía vàng óng, thơm phức rồi nhẩn nha tận hưởng hương vị rất lạ của bánh tro. 

Bánh cáy - Thái Bình




 
Bánh cáy Thái Bình, hấp dẫn thực khách ban đầu cũng bởi cái tên. Loại bánh tưởng chừng quà của biển, ăn vào lại thấy gạo nếp, lạc vừng, mứt bí, cơm dừa...

Bánh Cốm - Hà Nội

Bánh cốm làm từ Cốm, nhân đậu xanh dừa nạo và mứt bí hoặc mứt sen trần, thường dùng cho lễ ăn hỏi và cũng là đặc sản của du khách mua về làm quà khi đến Hà Nội.

Bánh Gai - Nam Định






Từ xưa, Nam Ðịnh vẫn có truyền thống làm bánh gai, lá gai ngay Cầu Ốc cũng có nhiều nhà trồng. Cách ăn cũng nghệ thuật. Bánh bóc làm sao khỏi dính lá, khi ăn sao cho khỏi rơi nhân.

Bánh tráng xoài - Nha Trang



 
Bánh tráng xoài là một món ăn đặc sản khá nổi tiếng của huyện Cam Lâm và một số địa phương lân cận của tỉnh Khánh Hòa. Bánh được làm chủ yếu từ trái xoài chín và mạch nha. Bánh tráng xoài còn có tên gọi là Bánh Xoài Nha Trang bởi phần lớn sản phẩm được tiêu thụ ở thành phố Nha Trang.

Bánh khô mè - Cẩm Lệ, Quảng Nam





Bánh khô mè giòn xốp ngọt ngào, giản dị mà thấm đẫm khúc tâm tình nguồn cội của những người dân xứ Quảng.

Bánh da lợn - Hội An





Bánh da lợn Hội An đặc biệt mang hương vị bột nếp lúa mới. Bánh da lợn Hội An ăn hơi dai, vị thanh dịu, thoang thoảng mùi thơm hương nếp mới, beo béo vị nước cốt dừa.

Bánh Bò - Sài Gòn



 
Bánh bò là một loại loại bánh xốp làm từ: bột gạo, nước, đường và men. Mặt bánh có rất nhiều bong bóng nhỏ do có nhiều lỗ khí trong bánh. Những chiếc xe bánh bò dừa trên các đường phố Sài Gòn từ lâu đã trở thành hình ảnh thân quen trong mắt người dân ở đây. Cứ vào khoảng cuối buổi sáng cho đến chiều tối lại dọc ngang qua các con phố bắt đầu cho một ngày mưu sinh.

Bánh Pía - Sóc Trăng



Bánh pía được làm bằng bột mì, sầu riêng, lòng đỏ trứng. Đôi khi bánh pía còn được gọi là bánh lột da.

Bánh ít - Bình Định



 
Một chiếc bánh ít ngon được đánh giá là phải dẻo nhưng khi ăn thì không bị dính răng, có vị tinh khiết của lá gai, vị dẻo thơm của gạo nếp, vị ngọt của đường, vị béo của dầu, vị bùi của đậu hòa quyện mà thành. Khi ăn chỉ cần bóc nhẹ lớp lá chuối xanh là hiện ra lớp da bánh ít màu đen bóng đầy hấp dẫn. Bánh ít lá gai là đặc sản của đất võ Bình Định, về sau lan rộng ra các tỉnh thành và trở nổi tiếng trong văn hóa ẩm thực miền Trung. 

Bánh rế - Phan Thiết




Bánh rế là loại bánh ngọt được làm bằng khoai lang và đường nấu chảy được tưới lên mặt bánh như cái rế. Tương tự như cách đặt tên của chả giò rế, bánh tráng rế... Bánh là đặc sản của nhiều nơi như Sóc Trăng, Bình Định, Phan Rang, Phan Thiết ...


Bánh ú - Nam Bộ




Bánh ú nước tro là món ăn truyền thống trong ngày tết Đoan Ngọ của người dân miền Nam. Bánh Có hình chóp, to bằng nắm tay người lớn, bánh ú nước tro được gói bằng lá bên ngoài, bên trong là bột nếp và nhân đậu xanh. Bánh ú nước tro dễ ăn, không gây ngán, bột bánh có vị mát nên được nhiều người ưa thích trong những ngày nóng.

Bánh Lá Mơ - Miền Tây



 
Bánh lá mơ là một loại bánh dân gian của vùng sông nước miền Tây làm từ ba nguyên liệu chính là bột gạo, nước cốt dừa và lá rau mơ. Theo truyền thống, bánh lá mơ trong, có màu xanh đậm, hình dạng dèn dẹt, dài dài.Ngoài ra,ta cũng có thể nắn bột thành những miếng tròn dẹt hay những sợi ngắn và xoăn lại như hình con nui và đem đi hấp cách thủy.[1].Khi ăn, người ta chan ngập nước cốt dừa trắng lên mặt bánh và đôi khi cũng rắc thêm đậu phộng rang. Bánh lá mơ khi ăn thì dai giòn vừa thơm, vừa ngậy béo ,vừa ngòn ngọt, ngai ngái.
(Nguồn Mytour.vn)

Món quà tinh túy mùa thu tại Hà Nội - Cốm Làng Vòng

Nói đến đặc sản Hà Nội, không ai là không nhớ đến cốm làng vòng, một thứ quà ăn vặt dân dã, thanh tao nhưng cũng rất nổi tiếng của đất Thăng Long – Hà Nội ngàn năm văn hiến. Nhưng ” cốm làng vòng” ở đâu? khi mà nhiều người vẫn chỉ được nghe mà chưa được cảm nhận rõ về cốm làng vòng.

Làng Vòng cách trung tâm Hà Nội về phía Tây Bắc độ dăm cây số, gồm có các thôn: Vòng Tiền, Vòng Hậu, Vòng Sở, Vòng Trung nhưng chỉ có hải thôn Vòng Hậu và Vòng Sở là làm cốm ngon. làng Vòng ngày xưa nay là phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy.


Để có được “Cốm làng Vòng” đúng vị thì phải trải qua nhiều giai đoạn công phu. vốn được  làm từ nếp cái hoa vàng, một loại gạo nếp nổi tiếng dẻo thơm. nhưng không chỉ vậy lúa làm cốm cho ngon thì phải là lúa vụ mùa, bắt đầu từ tháng bảy đến tháng mười. khi lúa khum ngọn, hãy còn sữa thì gặt đem về làm cốm. Lúa để làm cốm thì không được vò hay đập mà phải tuốt. Sau đó cho vào nồi rang. Cốm rang xong phải mang giã ngay, không được để nguội.mỗi mẻ giã khoảng 5 kg,  Trong quá trình giã phải có kỹ thuật, không được giã mạnh tay quá cốm sẽ nát. Khi giã phải luôn tay đảo cốm từ trên xuống, dưới lên cho đều, Giã mươi phút, thấy có trấu thì xúc ra, sảy trấu đi, lại giã. Giã khoảng 10 lần thì đem cốm đi sáng và hồ, rồi đựng vào lá sen.

Không hiểu sao người ta lại dùng lá sen để đựng cốm? Có lẽ thứ quà tinh khiết ấy phải được gói bằng lá của loài hoa “sạch sẽ”, “gần bùn mà chẳng hôi tanh” thì mới thấy hết được ý nghĩa của nó. Mặc dù đó chỉ là cách suy luận, song thực tế thì cốm được gói bằng lá sen thơm và ngon hơn khi ta gói bằng một thứ lá khác…



Cốm làng vòng là món ăn ưa chuộng mỗi dịp thu về trên đất Hà Thành. Cốm  thường được ăn cùng với chuối tiêu trứng cuốc hoặc hồng chín đỏ. không chỉ vậy cốm còn được dùng làm nguyên liệu đặc biệt cho thức bánh cốm chè cốm…những món ăn không kém phần thi vị bởi cái dẻo thơm của cốm, bùi đậm của đậu xanh, sần sật của sợi dừa xắt mỏng. Bánh cốm đi chung với bánh su sê trở thành cặp bánh không thể thiếu trong lễ ăn hỏi từ lâu nay của người Hà Nội. Và Thạch Lam trong cuốn “Hà Nội 36 phố phường” đã ví: “Cái màu xanh tươi của cốm như ngọc thạch quý, màu đỏ thắm của hồng như ngọc lựu già. Một thứ thanh đạm, một thứ ngọt sắc, không gì hòa hợp bằng”.

(Nguồn: Mytour.vn)

Đánh thức một không gian sống - Làng của những người già

 

 Đi từ đầu làng tới cuối con đường làng ấy chỉ thấy bóng dáng những người già ở lại và thật khó để bắt gặp những thanh niên trong làng. Người trẻ hơn đã rời làng đi khắp xứ kiếm sống, để lại ngôi làng cổ 500 năm tuổi chìm trong tĩnh mịch cùng những người già cô đơn. Đánh thức một không gian sống mà thời gian và lịch sử dường như đã dừng lại như làng Phước Tích là trách nhiệm bảo tồn di sản văn hóa cổ.

 Đi đến km 40 kể từ Huế ra phía Bắc, rẽ vòng vèo đường liên xã một đoạn thì chúng tôi đến được làng Phước Tích nằm ở huyện Phong Điền. Cái nề nếp làng xứ Huế có thể nói đã đọng lại hết ở Phước Tích. Con sông Ô Lâu xanh mướt ôm trọn những cây đa, những miếu mạo và vườn Huế. Và hàng chục ngôi nhà cổ nằm im lìm trong những vườn cũ.


 

 

Làng Phước Tích đẹp đến mức nghệ sĩ nhiếp ảnh Đào Hoa Nữ về ở cả tháng, chụp đến nghìn bức ảnh mà ra đi không nỡ. Cái tinh thần cốt cách của làng Phước Tích đọng lại trong hai câu chuyện. Vào năm 1939, vua Bảo Đại ban cho gia đình ông Hoàng Như Khuê bức hoành phi bốn chữ Tứ đại đồng đường. Đây là gia đình nổi tiếng đông con và phúc đức trong làng.

Chuyện thứ hai là bà Trương Thị Liễu, chồng bệnh chết sớm vào năm bà mới 18 tuổi, tuy trẻ trung, xinh đẹp nhưng bà ở vậy nuôi hai người con và thờ chồng. Năm 1934, vua Bảo Đại đã ban cho bà bức hoành phi Tiết hạnh khả phong. Bà Liễu sống một đời thanh bạch, đạm bạc nên đại thọ. Trong hai cuộc kháng chiến, Phước Tích đúng như tên gọi, tưởng như ông cha đã tích lũy phước đức, ngôi làng rộng lớn chẳng hề nằm trong tầm bom đạn, vẫn giữ được nguyên vẹn nét cổ xưa quý phái, yên bình.

Nhà rường ở Phước Tích được xây dựng bằng những đội thợ nổi tiếng khắp miền Trung nên tinh xảo, thẩm mỹ và quy mô không kém nhà rường của giới quý tộc chốn kinh thành Huế. Trong làng, bạn có thể gặp những tủ sách cổ, những đình chùa, cây cổ thụ nhiều trăm năm tuổi. Cuối làng, một lò gốm cổ mới được phục chế đã cho ra lò những sản phẩm đơn sơ giống hệt những vật dụng vẫn bán ở chợ làng cách đây 500 năm.

Sau 500 năm lập làng, đầu tháng 4/2009, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch công nhận làng Phước Tích là Di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia. KTS Hoàng Đạo Kính đánh giá: “Cấu trúc và tổ chức không gian làng Phước Tích có thể được coi là điển hình cho mô hình thôn quê của người Việt ở vùng Bắc Trung Bộ. Ở Phước Tích, quỹ kiến trúc cổ và cũ, song cảnh quan và vườn được bao quanh rất trẻ và tràn đầy sức sống”.

KTS Hoàng Đạo Kính cũng đánh giá Phước Tích là một trong vài ngôi làng cổ đẹp nhất VN. Dù không có sự kiện này, thì Phước Tích vẫn đang sống dậy đôi chút nhờ công nghệ làm lễ hội của các kỳ Festival Huế. Mỗi lần lễ hội, khách du lịch lại đổ về Phước Tích ngắm làng cổ. Ngôi làng này gần trung tâm Huế nhưng không nhiều thay đổi là bởi lẽ bên trong khoảng vườn vuông vắn, những ngôi nhà cổ ba gian hai chái còn nguyên vẹn chỉ có những người già cô đơn quạnh quẽ đang sống.

Có mấy cụ đã trên 100 tuổi, nhiều người khác cũng đã làm lễ thượng thọ 80 tuổi. Những người trẻ đã rời làng đi khắp xứ kiếm sống từ lâu. Không gian sống trong làng im lìm, đi gần hết làng mới bắt gặp một cặp vợ chồng trẻ bán nước mía ở gốc cây cổ thụ soi bóng xuống dòng Ô Lâu. Phước Tích không có đất làm ruộng, xưa nay chỉ là nhà vườn của nhiều dòng họ giàu có làm quan ở kinh thành Huế.

Bà Trần Thị Trúc, chủ nhân của một ngôi nhà cổ đẹp nằm giữa làng, kể, những người lui tới trong nhà lại chính là các nghệ sĩ nhiếp ảnh, một đoàn làm phim và các nhà nghiên cứu văn hoá. Con cháu bà thỉnh thoảng về thăm chỉ nói chuyện bán nhà rường của tổ tiên cho đại gia Đà Nẵng, Sài Gòn làm du lịch.

Sở dĩ 27 nhà cổ giá trị nhất làng Phước Tích chưa bị gỡ bán cũng nhờ phước tổ tiên, nền nếp gia phong rất khắt khe, đất lại phát nên con cháu không nỡ lòng bán nốt. Như vậy, sự kiện Phước Tích mới đây được chính thức công nhận là di tích quốc gia có thể là cách giữ lại cho tỉnh Thừa Thiên - Huế một ngôi làng đẹp nhất vùng Bắc Trung Bộ?

Bây giờ làng Phước Tích thỉnh thoảng lại rộn ràng đón tiếp du khách theo tour “Hương xưa làng cổ”, hoặc khách Pháp, Tây Ban Nha thích đến đây du lịch kiểu “như ở nhà” “home-stay”. Lúc ấy bếp mấy ngôi nhà cổ giữa làng lại nghi ngút khói để dạy khách làm bánh ướt và bánh bèo truyền thống.

Những lúc ấy tôi nghĩ rằng KTS Hoàng Đạo Kính thật có lý khi nhận định tại hội thảo gìn giữ phát triển di sản làng cổ Phước Tích cách đây ba năm, rằng, không thể xếp hạng làng Phước Tích như một di tích, mà hãy xếp nó là làng-di sản. Địa phương phải ban hành quy chế bảo tồn, cải tạo và phát triển làng, hướng dẫn duy tu, cải tạo thích ứng các ngôi nhà, cách thức tổ chức du lịch hợp lý.

KTS Hoàng Đạo Kính lo nhất không phải là vấn đề kỹ thuật và đầu tư, mà là làm sao để gắn kết máu thịt, quyền lợi của người dân với di sản, biến di sản thành động lực phát triển kinh tế. Vấn đề đặt ra với làng cổ Phước Tích 500 năm tuổi là gìn giữ di sản văn hóa và tiếp tục phát triển chứ không phải giữ nguyên trạng một di tích.