Thứ Tư, 23 tháng 10, 2013

Xứ Cù Lao với làng nghề làm tranh kiếng

Những câu chuyện dân gian, người đời kể lại hoặc sách vở ghi chép về đạo làm người, hiếu thảo với tổ tiên, ông bà… đã trở thành tiềm thức trong mỗi người Việt Nam và bức tranh vẽ trên kiếng treo trong nhà hay để thờ là biểu hiện của sự tôn kính đó. Đối với dân Campuchia, nhiều gia đình ở trong các phum, sóc cũng rất thích sản phẩm tranh kiếng.

Tồn tại gần một thế kỷ, nghề vẽ tranh trên kiếng tại cù lao Chợ Mới (An Giang) tạo ra những sản phẩm tinh thần độc đáo. Đã có thời, hầu như gia đình nào ở Nam Bộ cũng có bức tranh kiếng treo trang trí trong nhà.

Xuất phát từ tín ngưỡng:


 


Đây là nét văn hóa rất độc đáo, vừa mang tính tín ngưỡng, vừa gắn liền với đời sống người dân vùng sông nước vì đa phần đều theo đạo Phật. Do vậy, bức tranh vẽ trên kiếng ở cù lao Chợ Mới  hòa quyện được 2 yếu tố là dân gian và tôn giáo. Chẳng hạn như, gia đình thờ cúng ông bà thuần túy, người ta mua bộ tranh “Cửu Huyền Thất Tổ” để thờ (1 khuôn lớn, 2 khuôn liễn đứng, 2 khuôn chắn ngang đầu trên và bên dưới, 1 khuôn “Phước – Lộc – Thọ”) và gia chủ có thể “chế bớt” 1 hoặc 2 khuôn chắn ngang, tùy theo không gian của căn nhà mà bố trí. 

Tài hoa của họa sỹ dân gian

Theo nhiều người dân, nghề tranh kiếng ra đời khoảng 100 năm. Người đầu tiên có công mang nghề từ Lái Thiêu về là ông hai Luông (đã qua đời). Đến khoảng năm 2000 ở xã Long Giang, Long Điền B xóm nghề có khoảng vài chục hộ sống sung túc với nghề. Song nghề cũng bắt đầu thoái trào. Hiện trên địa bàn huyện chỉ còn 3 hộ làm nghề tranh kiếng với chưa đến 30 lao động. 


Gần 30 năm gắn bó với nghề, ông Huỳnh Minh Quang, 68 tuổi, ngụ xã Long Giang đã cho ra đời nhiều bức tranh sống động, đáp ứng thị hiếu của người dân… Để duy trì sản xuất đến ngày nay do ông Quang có cách kinh doanh hiệu quả. Bên cạnh những loại tranh phải theo khuôn mẫu sẵn (Cửu Quyền Thất Tổ, thần thánh…), tranh phong cảnh được ông Quang chú ý nhiều. Nghe người mua góp ý, thích kiểu gì mới là cơ sở làm theo. Xem bức tranh phong cảnh đầm hoa sen rất đẹp, ông cho biết: Tranh bán rất đắt trên địa bàn Đồng Tháp, bởi chiếm được cảm tình với người dân nơi đây. Sen gắn liền là biểu tượng của quê hương Tháp Mười. Ông cho biết thêm, mẫu tranh về phong cảnh núi Cấm đã chào hàng dân phố núi và tạo được ấn tượng tốt với khách hàng.

Trước kia, tranh được vận chuyển chủ yếu bằng đường thủy. Thương lái bán tranh góp phần giúp cho sản phẩm tranh kiếng gần gũi hơn với người dân. Qua chuyến bán hàng ở các nơi, những lời góp ý, tâm sự của người mua thông qua họ sẽ đến “tai” thợ vẽ để cho ra ý tưởng mới, đáp ứng thị hiếu. Thông qua ý kiến của thương lái chở tranh đi tứ xứ ông Quang tính toán xem loại tranh nào bán chạy hàng để đầu tư vào. Đời sống kinh tế của người dân nông thôn khấm khá hơn nên tranh vẽ về đề tài nông thôn với: bờ tre, con trâu, túp nhà tranh trôi vào dĩ vãng. Nắm bắt tâm lý ấy ông thêm những chi tiết mới như: xe hơi, nhà lầu… biến những ước mơ, khát vọng của người dân vào tranh. Vì thế tranh sau luôn hoàn thiện hơn tranh trước và sống lâu trên thị trường. Từ những mẫu tranh ông vẽ, nhiều thợ xung quanh “học tập” để tạo ra những mẫu mới… Từ tháng 9 – 11 âm lịch là thời gian sản phẩm bán chạy nhất trong năm. Bên cạnh mua tranh, nhiều gia đình mang đến để tân trang lại những bức đã cũ…

Lát cắt nghề qua chuyện đời người thợ

Vào đầu thập niên 90, kinh tế gia đình công chức rất khó khăn. Cả hai vợ chồng ông Quang đều theo nghiệp giáo viên, đời sống không tránh khỏi khó khăn. Để chăm lo thật tốt cho ba đứa con đang tuổi đi học ông Quang quyết định vực dậy kinh tế gia đình bằng nghề truyền thống của địa phương. Vợ ông, bà Yến kể lại: “Thấy nhiều người trong xóm làm tranh ông liền theo luôn. Lúc ấy nghề cũng thịnh lắm, nhà nhà làm tranh, cả xóm này đều theo nghề làm tranh kiếng. Mình xuất vốn gia công lại sản phẩm cho người ta kiếm tiền…”. Thấy tranh phong cảnh treo tường được ưa chuộng ông Quang bắt đầu tập tành vẽ mẫu. Dễ thì chim cò, rồi nhà cửa, đồng lúa…, khó dần đến cảnh núi non, cảnh vật thật ngoài đời. Để nâng cao tay nghề, ông đi nhiều nơi, thăm viếng các đình chùa, phong cảnh để sáng tạo thêm nhiều kiểu mới, phong phú về thể tài… 
Khác với các loại tranh vẽ thông thường, ngày xưa vẽ tranh kiếng là một loại hình đặc biệt. Nguyên tắc vẽ tranh kiếng là phải vẽ từ phía sau mặt kính, khi vẽ xong mới lật tấm kính lại và bề đó mới chính là bề mặt của tranh. Do nguyên tắc là vẽ phía sau mặt kính nên chi tiết nào đáng lẽ phải vẽ sau cùng, thì với tranh kính lại phải vẽ trước tiên. Chính với đặc điểm này đã tạo nên nét độc đáo trong tranh kiếng.


 


Vẽ tranh kiếng rất khó, đòi hỏi người nghệ nhân phải thật sự khéo tay và có óc thẩm mỹ cao. Trong một xưởng vẽ tranh thường có năm bảy thợ, trong đó thường có một người giỏi tay nghề chỉ huy, am tường về kỹ thuật và phân công cho thợ chuyên môn, thợ phụ để hoàn chỉnh một bức tranh. Tuy nhiên, thời gian làm ra sản phẩm lâu, tốn nhiều chi phí. Ông Huỳnh Minh Quang là một trong những người đầu tiên kéo lụa tranh trên kiếng, rút ngắn thời gian, giảm chi phí làm ra sản phẩm…

Hiện cơ sở của ông Quang có 10 nhân công đang làm việc. Nhờ nghề vẽ tranh kiếng vợ chồng ông vượt qua khó khăn, chăm lo cho cả ba người con đều tốt nghiệp đại học và có việc làm ổn định. Nay tuổi đã cao, mắt ông Quang đã mỏi mệt, lâu rồi không còn thường xuyên tạo ra mẫu mới. “Con cái không theo nghề, lại không có học trò ưng bụng để truyền dạy nên nghề tranh kiếng có nguy cơ mai một nhưng biết làm sao bây giờ, xu hướng hiện tại nó như vậy, đành phải chịu!”, người họa sỹ dân gian trải lòng. q

Theo tài liệu ghi lại, trong những năm đầu thế kỷ XX, ở Nam Bộ có 3 vùng sản xuất tranh kiếng nổi tiếng gồm: Lái Thiêu (Thủ Dầu Một), Chợ Lớn (Sài Gòn) và Chợ Mới (An Giang). Ba vùng này dần dần phát triển trở thành 3 trung tâm sản xuất tranh kiếng và tạo ra ba dòng tranh kiếng khác nhau, mỗi dòng tranh kiếng lại có những đặc điểm riêng.

 

Sóc Trăng: Làng nghề lạp xưởng

Sản phẩm từ các làng nghề Sóc Trăng nổi tiếng thơm ngon, được người tiêu dùng ưa thích.Có dịp đến Sóc Trăng,bạn đừng quên hai loại đặc sản nổi tiếng là lạp xưởng và bánh pía (loại bánh nướng được ưa chuộng quanh năm,nhất là dịp Trung thu và Tết) 1 trong những món ăn quen thuộc trong ngày Tết.

 Nằm cách TP. HCM 231km, Sóc Trăng giáp TP. Cần Thơ, các tỉnh Hậu Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long, Bạc Liêu và biển Đông; Ngoài lúa gạo, Sóc Trăng còn có nhiều loại nông sản nổi tiếng như mít, dừa, hành, tỏi, các vườn nhãn, chôm chôm, sầu riêng, cam, quýt…Riêng bánh pía và lạp xưởng có nguồn gốc từ người Hoa nhưng bao năm nay đã thành đặc sản quen thuộc của Nam bộ. Người Khmer và người Hoa ở Sóc Trăng đông nhất đồng bằng sông Cửu Long, với nghề làm bánh pía -lạp xưởng lưu truyền lâu đời. Bởi vậy nơi đây được coi là quê hương của các đặc sản này.

Làng nghề truyền thống Vũng Thơm

 

 


Nói tới lạp xưởng –bánh pía Nam bộ là nói tới Sóc Trăng, và ở Sóc Trăng thì Vũng Thơm (xã Phú Tân, huyện Mỹ Tú) là địa danh nổi tiếng về nghề này. Chưa tìm được lời giải thích cho cái tên Vũng Thơm nhưng tôi cảm nhận được sự ngọt ngào, hấp dẫn của vùng đất này, như những đặc sản mà người dân ở đây làm ra. Các cơ sở ở đây đều sản xuất cả bánh pía và lạp xưởng. Cơ sở Tân Hưng của anh chị Ngô Thành Chung -Huỳnh Nguyệt Kiều là một địa chỉ có bề dày kinh nghiệm và uy tín. 13 tuổi anh đã theo nghề ở lò bánh của gia đình, chủ yếu làm bánh pía. Sau khi cưới, hai vợ chồng tham gia quản lý lò bánh Tân Hưng của cha mẹ chị, và từ năm 1990 họ được giao điều hành cơ sở này. Chung tìm thầy học thêm để mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao chất lượng lạp xưởng.


Anh Chung giúp tôi phân biệt từng loại lạp xưởng. Một phát hiện nho nhỏ mà thú vị. Bởi lạp xưởng là món ăn rất quen thuộc, thuận tiện vì dễ bảo quản và chế biến. Chỉ cần chiên, hấp hay nướng qua rồi thái vát mỏng là có đĩa lạp xưởng thơm phức màu nâu đỏ ngon mắt. Thêm chút đồ chua, củ kiệu là đã có thể “lai rai” hay làm cho mâm cơm thêm hấp dẫn. Nhưng hẳn ít ai hiểu và tận mắt thấy những cây lạp xưởng ngon lành đó được làm ra như thế nào.

Lạp xưởng tươi dùng ruột heo tươi, các cô gái trẻ thoăn thoắt bên máy dồn thịt vào ruột heo, dùng kim inox xăm rồi cột thành từng khúc ngắn. Lạp xưởng được rửa sạch, đưa vào sấy 4 ngày đêm. Chiếc lò than lớn có 4 tầng, lạp xưởng được chuyển dần lên từng tầng với nhiệt độ cao hơn để khi ra lò khô đều với màu sắc ngon mắt. Với cách làm thủ công xưa, lạp xưởng tươi không để được lâu, nay nhờ cải tiến công nghệ nên bảo quản được 15 ngày trong điều kiện bình thường, sản phẩm hút chân không được 3 tháng.

Còn lạp xưởng khô thì dùng ruột heo khô, dồn thành những cây dài 17 -18cm. Cách làm tương tự nhưng kỹ thuật có khác nên dễ bảo quản, nếu hút chân không thì chất lượng như sản phẩm chế biến công nghiệp.

Bí quyết ở làng nghề

Quy trình là vậy, nhưng làm sao để sản phẩm có hương vị thơm ngon độc đáo nổi tiếng? Anh Chung cho biết, quan trọng nhất là lựa nguyên liệu và pha chế. Cùng là mỡ nhưng bánh pía phải dùng mỡ bệu (dày, mọng) còn lạp xưởng cần mỡ sượng (mỏng, khô) mới ngon.

Thịt heo làm lạp xưởng chỉ chọn nạc đùi, xay nhuyễn và trộn với mỡ xay, ướp hương liệu chừng 20 phút rồi dồn vô ruột. Ruột heo phải là loại tốt, dài thì lạp xưởng mới đẹp….Bánh pía cũng vậy. Loại bánh dân dã này rất độc đáo, từ vỏ bột trắng tinh nhiều lớp mỏng tang như giấy tới nhân bánh ngọt thanh với hương vị sầu riêng đặc trưng nên nó rất phổ biến với người dân Nam bộ, dùng trong nhà, đãi khách hay mua làm quà đều tiện. Thưởng thức bánh pía cùng ly trà nóng thực tuyệt vời. Cả tới mấy người bạn tôi ở miền Bắc cũng hỏi thăm, nhờ mua giúp vài cây bánh pía ăn thử!

Để có được thứ bánh gây ấn tượng đó, bột mì được trộn với đường, mỡ nước với kỹ thuật đặc biệt để tạo ra hai loại bột da dai và da xốp, rồi đánh chung với nhau tạo thành nhiều lớp vỏ mỏng. Nhân bánh là đậu hấp chín, cán nhuyễn trộn đường và mỡ nước rồi sên chừng 20 phút -Trước kia dùng lò than hay trấu, mỗi mẻ đậu chừng 10kg cần ba chàng trai trẻ dùng dầm gỗ thay nhau đảo đều. Nay dùng lò gas và đảo đậu bằng mô tơ điện, nhanh chóng, nhẹ nhàng và vệ sinh hơn nhiều. Tạo hình xong, bánh pía được đóng mộc hiệu màu đỏ rồi đưa vào lò, nướng khoảng 9 -11 phút tuỳ bánh lớn nhỏ. Còn pha chế, tẩm ướp gia vị thì mỗi lò có bí quyết riêng, như rượu hay thuốc bắc cho lạp xưởng; Mứt bí, hột vịt muối và nhất là sầu riêng cho nhân bánh pía -phải là sầu riêng tươi chứ không dùng hương tổng hợp, nhưng đều tạo nên hương vị thơm ngon của đặc sản Vũng Thơm.

 

An Giang: Làng nghề mộc Long Điền

Nghề mộc là nghề mà không phải ai cũng có thể làm được, ở trong đó cần những tinh hoa nghệ thuật, những cảm xúc của người yêu nghề trong đó nữa. Tinh hoa nghề mộc Long Điền Sản phẩm mộc Long Điền Những phiến gỗ nhỏ, to được thổi hồn làm cho sống động, phản ánh đời sống văn hóa dân gian đặc sắc của vùng sông nước An Giang nói riêng và của làng quê Việt Nam nói chung, được bạn bè trong, ngoài nước yêu thích và có giá trị xuất khẩu cao.

Thuộc huyện cù lao Chợ Mới của tỉnh An Giang, xã Long Điền Chợ Thủ nổi tiếng từ cách đây gần hai thế kỷ, nơi phát tiết những người thợ thủ công giỏi giang nhất của An Giang, đa tài, khéo léo

Đời sống người dân được nâng cao, thị hiếu về cái đẹp cũng nâng tầm, xu hướng trang trí nội thất bằng gỗ được người dân ưa chuộng, nhất là gỗ chạm trổ công phu, điệu nghệ bằng đôi tay người thợ thủ công. Nhờ đó, sức sống của làng nghề mộc Chợ Thủ Long Điền A (Chợ Mới) luôn bền vững với thời gian và càng tất bật hơn trong những thời khắc xuân về Tết đến.


 


Chạy dọc tuyến đường Tỉnh lộ từ thị trấn Mỹ Luông dài đến Long Điền A đã nghe vang vọng thanh âm tiếng đục gỗ, tiếng mài, cưa và mùi thơm của gỗ, của nước sơn… Hai bên đường, gỗ chất cao, rồi sản phẩm tủ và bàn ghế nhiều chủng loại trưng bày bắt mắt….

Vừa lên hàng cho thương lái, anh Đinh Thanh Hòa, chủ cơ sở mộc Thanh Hòa bày tỏ: Năm nay không ồn ào nhưng hàng bán ra tốt. Thị trường chuộng nhất là các sản phẩm trưng bày trong nhà làm đẹp 3 ngày Tết, như: Tủ ly, tủ thờ, kệ, giường hộp… bán chạy hàng lắm.

Để làm ra được sản phẩm phải qua nhiều công đoạn công phu phức tạp: Cưa xẻ gỗ, cắt theo quy cách sản phẩm, bào láng, lấy kích thước, vào khung từng loại, đồ mực trên gỗ, vẽ, chạm, lắp ráp, sơn, gắn khóa.

Khác với ngành nghề hiện có, nghề mộc cần sự khéo léo của người làm nghề; đẹp, sống động của hình mẫu; bóng, bền của gỗ.

Độc đáo hơn với sản phẩm trang trí nội thất theo bản vẽ có chạm khắc gỗ, mỗi cơ sở hoàn toàn không sử dụng hình mẫu của cơ sở khác mà từng nghệ nhân vẽ, chạm khắc phải nhập tâm, thật khéo léo, tỉ mỉ trong từng nhát búa.

Có như thế, sản phẩm mộc mới tiêu thụ mạnh và góp phần giải quyết việc làm thường xuyên trên 1.000 lao động với mức thu nhập từ 4,5 - 6 triệu đồng/tháng.

Anh Phạm Văn Buôl, 51 tuổi, gần 30 năm làm thợ phấn khởi: Nghề này nuôi sống cả gia đình, nhất là thời điểm làm hàng Tết không ngơi tay. Nhờ đó, thu nhập cũng tăng thêm trên 300 ngàn đồng/ngày. 


Câu ca: "Long Điền Chợ Thủ quê anh
Trai chuyên làm tủ, gái sành cửi canh
Dệt hàng chị mặc chẳng lành
Giường chõng nghề rành, anh ngủ sạp tre.."


Câu ca trên đã gói gọn hai nghề rất lâu đời và độc đáo của địa phương đó là nghề dệt vải lấy quần áo mặc, nghề mộc đóng và chạm khắc các sản phẩm từ gỗ như bàn ghế, giường, tủ, chõng… Từ huyện lỵ Chợ Mới, men theo con đường 942 đi khoảng 20 km sẽ tới xã Long Điền Chợ Thủ. Xưa kia, bên bờ sông Tiền có một khu chợ tên là Chợ Thủ, nghĩa là chợ của các nghề làm bằng thủ công và bán chủ yếu hai mặt hàng vải và đồ gỗ. Song, vì ngoài bờ sông đất hay sụt lở, chợ được chuyển vào sâu bên trong trung tâm làng và lấy tên mới là chợ Long Điền A, nhưng dân gian vẫn thích cái tên cũ nên thường gọi là Long Điền Chợ Thủ, bảo lưu hai nghề truyền thống là dệt vải và làm mộc. 

Những năm đầu thế kỷ XX, Long Điền Chợ Thủ đã nổi tiếng cả nước với những chuyến bè gỗ xuôi ngược, tiếng đục đẽo gỗ và tiếng thoi dệt cửi lách tách nhộn nhịp đêm ngày. Mặc dù bán buôn phát đạt, song vì giá cả hạn hẹp, một thời làng nghề gặp nhiều khó khăn, vải dệt ra nhưng phụ nữ vẫn phải mặc áo vá, giường tủ bền chắc mà nam giới vẫn phải ngủ sạp tre ọp ẹp. Trong chiến tranh ác liệt, người dân vẫn bám nghề, xây dựng được thương hiệu đồ gỗ Long Điền Chợ Thủ ở nước ngoài. Nhưng khi sang thời bình, vì điều kiện còn nhiều khó khăn, việc sản xuất đồ gỗ giảm mạnh, chỉ còn một số hộ duy trì làm nghề. Những năm 1990 trở đi, nhờ chính sách hỗ trợ thiết thực của Đảng và Nhà nước, một số xưởng sản xuất với quy mô lớn được xây dựng, trong đó có đầu tư máy móc hiện đại của châu Âu. Cuộc sống người dân xã Long Điền A hiện nay từng bước khấm khá, nhà cửa khang trang đầy đủ tiện nghi, đường sá cũng rộng dài sạch đẹp, tất cả là nhờ vào nghề mộc trong đó đóng đồ gia dụng và chạm khắc gỗ đang là hai nghề chủ lực chính tạo công ăn việc làm cho đông đảo người dân. Bên cạnh đó, nghề chạm gỗ phát triển trên cơ sở nghề mộc cổ và một nghệ nhân chạm gỗ có công lớn đầu tiên trong việc phát triển nghề chạm khắc ở địa phương là cụ Hồ Xuân Lai hay cụ Tư Chia.


 


Nghề làm mộc ở Long Điền Chợ Thủ chủ yếu là “cha truyền con nối”, sau này một bộ phận thanh niên được xã cử đi học nâng cao tay nghề ở các tỉnh, tiếp thu tinh hoa nghề mộc. Ngày nay, người dân khéo tay làm được rất nhiều sản phẩm đẹp và chất lượng cao cung ứng cho thị trường. Ngoài giường, tủ, sập, tràng kỷ, bàn, ghế, đôn chậu cảnh, tượng, phù điêu, câu đối, ghe thuyền, còn có các sản phẩm mây tre đan đa dạng về chủng loại, rực rỡ về màu sắc.


 Những tấm gỗ lớn qua bàn tay nghệ nhân khéo léo trở thành những chiếc ghe xuồng ba lá, năm lá, những chiếc tủ tường, bàn và ghế dài trong các phòng hội nghị; những phiến gỗ nhỏ hơn cũng trở thành các loại tủ nhỏ để quần áo, chạn bát, giá đỡ, khay đựng,… ngay cả những khúc gỗ nhỏ cong queo sần sùi có khi chỉ là gốc cây, cành cây cũng biến ra những sản phẩm thủ công mỹ nghệ tuyệt đẹp như tượng Phật, các vị tiên, tứ linh (long, ly, quy, phượng), các con vật nuôi trong nhà (trâu, lợn, gà), câu đối, tượng…Bên cạnh đó, còn có các bức phù điêu theo trường phái mỹ thuật Tây Âu như các em bé hài đồng nghịch ngợm, tượng thần vệ nữ, chiến binh và các danh nhân trong lịch sử nhân loại…

Những phiến gỗ nhỏ, to được thổi hồn làm cho sống động, phản ánh đời sống văn hóa dân gian đặc sắc của vùng sông nước An Giang nói riêng và của làng quê Việt Nam nói chung, được bạn bè trong, ngoài nước yêu thích và có giá trị xuất khẩu cao. Nhờ vị thế trên bến dưới thuyền, nằm bên các nhánh sông Tiền, Hậu Giang, Ông Chưởng, sản phẩm đồ gỗ Long Điền Chợ Thủ được đưa đi muôn nơi như Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long, thành phố Hồ Chí Minh, Huế và Hà Nội. Hiện nay, xã Long Điền A có khoảng 1.470 hộ gồm hộ cá nhân và kinh doanh tập thể với hơn 3.000 lao động sản xuất đồ gỗ, hàng tháng thu nhập bình quân là 1.200.000 đồng. Những người thợ mộc yêu nghề sáng tạo đang từng ngày cống hiến cho đời những tác phẩm đẹp tôn vinh nghề mộc dân tộc. 

Vì vậy để nghề mộc chạm khắc gỗ Chợ Thủ trụ vững với thời gian rất cần tăng nguồn vốn hỗ trợ mua sắm máy móc thiết bị sản xuất; thành lập khu sản xuất làng nghề tập trung và phòng trưng bày sản phẩm làng nghề tại TP.Long Xuyên và TX.Châu Đốc để giới thiệu sản phẩm với khách trong và ngoài nước.

Đặc biệt, cần khoảng 1,5 tỷ đồng thành lập nhà máy, tận dụng mạt cưa chế biến thành thanh củi sử dụng trong đun nấu, tăng lợi nhuận và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

 

Giữa thành phố có làng caphe 400 năm tuổi

Không ồn ào như ở phố xá, mọt sự yên bình và hấp dẫn làm cho ai đến đây cũng phải ngắm nhìn và cảm thấy hấp dẫn. Làng cà phê dân giã bên bờ tre xanh, vườn cây cổ thụ vươn cao tỏa bóng mát mở ra không gian miền quê thanh bình hiếm hoi giữa ồn ào phố xá.

Từ giao lộ Phan Chu Trinh - Nguyễn Nghiêm - Trần Hưng Đạo rẽ trái men theo con hẻm nhỏ là vào tới làng cà phê ở phường Nghĩa Lộ (TP Quảng Ngãi). Đến đây, du khách có cảm giác như trở về vùng quê nông thôn rợp bóng cây xanh.


 


Mỗi khu vườn nhà dân nơi đây rộng hàng nghìn mét vuông kết nối liên hoàn tạo nên làng cà phê sinh thái với nhiều loại cây cổ thụ như si, trúc, thiên tuế, mai xuân, nhãn hay lũy tre trải dài cong vút...

PGS. TS Phạm Đăng Phước cho biết, ngôi làng cổ gần 400 tuổi này từng có tên Thích Lý - làng của họ ngoại nhà vua. Thích Lý là cơ ngơi của thân phụ Từ Dũ thái hậu, thân mẫu vua Tự Đức. Hiện, trong khuôn viên khu vườn nhà thờ Phạm tộc còn lưu lại nhiều dấu tích ba trụ cổng thành ngoại (mỗi trụ cao 4m, rộng 1m), hai cổng thành nội, lũy tre lâu đời, hai cây thiên tuế khoảng 300 năm.


 


Do trồng hoa màu thường xuyên bị chuột cắn phá, năm 1992, ông Tạ Xuân Hoàng đã phát dọn, tận dụng mở quan trong khu vườn rộng, nhiều cây xanh to lớn lấy tên là Phượng Cát. Năm 1994, ông Hồ Việt tiếp tục mở quán cà phê vườn lấy tên Đan Phượng.

Sau đó, lần lượt các quán cà phê "vườn nối vườn" hình thành nên làng cà phê sinh thái rộng hơn 2 ha theo các tên gọi mộc mạc, tao nhã gồm Tuế Mai Viên, Đan Phượng 2, Vườn Xanh, Thảo Nguyên, Tao Nhân, Ngọc Hương, Xưa... Nhờ không gian vườn xanh rộng lớn, cây cối um tùm yên tĩnh ở làng cà phê nên từ lâu đã trở thành "đất lành" cho muôn loài chim bay về trú ngụ, làm tổ.
Mỗi quán cà phê vườn nơi đây đều mang vẻ quyến rũ riêng. Quán cà phê Tuế Mai Viên tạo ấn tượng với lũy tre làng trải dài hơn 50 m làm phên giậu và hai cây thiên tuế cổ thụ sừng sững tỏa bóng mát. Quán Xưa ẩn mình dưới vườn cau cùng những lều tranh mộc mạc. Quán Đan Phượng gieo vào lòng du khách với cổng ngõ, bàn ghế bằng tre nứa giữa khu vườn cây xanh mát rượi...

"Mỗi lần đến làng cà phê ở thành phố Quảng Ngãi, tôi như được sống trong không gian tĩnh lặng, hòa mình với môi trường thiên nhiên rộng lớn. Tôi thường đưa vợ, con đến làng cà phê để thư giãn vào dịp cuối tuần", anh Nguyễn Văn Trúc ở huyện Sơn Tịnh tâm sự.


 


Người dân nơi đây thường gọi làng cà phê là "lá phổi xanh" điều hòa nhiệt độ giữa khu vực trung tâm thành phố Quảng Ngãi. Những ngày hè oi bức, làng cà phê sinh thái, mát lạnh trở thành nơi "trốn nóng" lý tưởng cho nhiều người.
Những năm gần đây, một số công ty lữ hành đã đưa du khách trong và ngoài nước đến thưởng ngoạn các khu vườn cổ ở làng cà phê. Ông Cao Chư, Phó giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Ngãi nhận định, đến làng cà phê du khách không chỉ đơn thuần là uống cà phê, hòa mình trong bầu không khí trong lành mà "uống" cả bóng thời gian, hoài niệm về không gian làng quê cổ kính, nguyên sơ trường tồn qua nhiều thế kỷ.

Còn ông Võ Văn Lợi, Chủ tịch UBND phường Nghĩa Lộ bảo, làng cà phê dày đặc cây xanh không chỉ là "vốn quý" của riêng địa phương mà còn là điểm đến thân thiện hấp dẫn du khách của thành phố. Đáng trân trọng là hàng năm các gia đình đã không ngừng tôn tạo, duy trì ổn định mô hình nhà vườn sinh thái truyền thống, lưu giữ mãi hình ảnh ngôi làng cổ xưa tươi xanh cho thế hệ mai sau.

 

Bình Định - Thắng cảnh đẹp biển Nhơn Lý

Nhơn Lý là nơi có con sóng dịu hiền rì rào đi vào giấc ngủ, với Eo Gió, với Giếng Tiên hay những miền cát dài bất tận cùng cái nắng gay gắt đến cháy da cháy thịt và những con người thật thà chất phác...

Cách trung tâm phố Quy Nhơn 30km, băng qua cầu Thị Nại là xã Nhơn Lý. Xã Nhơn Lý đã có lịch sử lâu đời, bề dày về truyền thống văn hóa với những nét đẹp trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.

Eo Gió nằm bên Bấc (thôn Lý Lương). Đường xuống Eo Gió hơi khó đi (vì chưa có bậc tam cấp), vẫn là đá tự nhiên. Nếu muốn chụp những bức ảnh từ trên núi xuống biển, bạn phải đi một đường vòng phía Eo Gió ra núi Hưng Lương, muốn khám phá thêm có thể thuê thuyền ra Hòn Cân, Hòn Sẹo, Hòn Cỏ dạo quanh một vòng biển, gió mát lồng lộng, biển khơi, buổi trưa còn thấy cả cầu vồng trên biển và những trảng cát dài trắng xóa. 

 

 


Người dân trong xã vẫn sống với những nghề liên quan đến biển như đánh bắt thủy hải sản, chế biển hải sản. Đây là một xã đảo vẫn còn lưu giữ nhiều di tích của văn hóa Champa, với lễ hội Cầu ngư được tổ chức hàng năm, nơi còn lưu giữ 6 sắc phong của các triều đại Vua...


 

 

 

 

 

 

Tây Nguyên đánh thức tiềm năng du lịch di tích

Khu vực Tây Nguyên với nhiều tiềm năng du lịch không những mang giá trị kinh tế mà còn là những chiến tích được đi vào lịch sử. Để nhằm mục đích đẩy mạnh phát triển tiềm năng du lịch di tích tại Tây Nguyên sẽ là điều đáng chú ý trong thời gian này.

Nam Nâm Nung có diện tích hơn 30km², kéo dài từ phía Tây Bắc địa bàn xã Quảng Sơn (huyện Đắk Gl’ong) đến Lâm trường Đắk N’tao và Khu bảo tồn thiên nhiên Nâm Nung. Hầu hết rừng ở đây vẫn còn là nguyên sinh. So với Bắc Nâm Nung, động thực vật ở khu vực Nam Nâm Nung có phần phong phú hơn. Quần thể khu di tích này bao gồm Tỉnh ủy và Tỉnh đội Quảng Đức cũ. Khu căn cứ Tỉnh đội nằm ở phía Tây Nam Dình Dứa, dưới chân đồi Yok K’Lé Lay. Vành đai ngoài khu vực Tỉnh ủy hiện tại vẫn còn những vết tích hầm, hào hình chữ Z, bếp Hoàng Cầm và những dấu tích địa dư mà các chiến sĩ trước đây phát rẫy trồng màu (lúa, ngô, khoai, sắn...). Vào bên trong vành đai là trung tâm của Tỉnh đội (1968 - 1971), như một quần thể kết cấu của nhà và hầm nối tiếp nhau. 


 


Từ trên đồi (phía Nam) đi xuống (theo hướng Bắc), khách tham quan sẽ được thấy vết tích hầm của Tỉnh ủy (có độ dài 2,5m, rộng 0,9m) và hầm làm theo kiểu chữ Z để tiện cho việc đi lại - một cửa vào và một cửa ra. Tiếp là căn nhà ở và làm việc giai đoạn 1968 - 1969 của đồng chí Bùi Đức Thành (Năm Nhân), và sau đó là đồng chí Nguyễn Văn Thanh - Tỉnh đội trưởng ở và làm việc giai đoạn 1969 - 1971. Từ căn cứ Tỉnh đội theo hướng Bắc khoảng 3,5km đường chim bay là tới căn cứ Tỉnh ủy thuộc khu vực suối Đắk Điên Clou, được bao bọc bởi 2 phụ lưu suối Đắk Điên Clou ở phía Bắc và Đông Nam. Khi đến nơi đây, khách tham quan sẽ được thấy nền nhà Tỉnh ủy nằm tựa lưng vào 2 tảng đá lớn phủ đầu rêu xanh bên lề con suối (phụ lưu phía Nam). Trước đây nhà là nơi ở và làm việc của đồng chí Trần Phòng (Bảy Biên) - Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Đức, nền nhà có diện tích 12m², làm bằng gỗ, lợp lá mây hai mái, mặt hướng về phía Bắc. 

Nằm về phía Tây Bắc khoảng 30m là căn hầm tự nhiên trong vách đá, phía trên hầm được phủ một tảng đá lớn, có sức chứa 8 - 10 người, mặt hầm hướng về phía Bắc nằm cạnh kề phụ lưu suối Đắk Điên Clou (nhánh phía Bắc) về hướng Đông chừng 50m, khách tham quan sẽ tận mắt nhìn thấy một ngọn thác nhỏ xinh xắn và thơ mộng, có độ cao 3,5 - 4m. Hội trường, nơi tổ chức Đại hội Tỉnh ủy tỉnh Quảng Đức lần thứ nhất (2/9/1969) nằm tựa lưng vào dòng chảy của thác. 


 



Trong khung cảnh núi rừng Nam Nâm Nung hôm nay, ít ai ngờ nơi đây trong kháng chiến chống Mỹ lại là một căn cứ cách mạng nổi tiếng. Đến đây khách tham quan sẽ được tận mắt chứng kiến màu xanh ngút ngàn của núi rừng Tây Nguyên, được đắm mình trong những con suối, ngọn thác với dòng nước trong lành, mát mẻ, lúc này hình ảnh lịch sử như sống lại trước mắt du khách một thời hào hùng oanh liệt, di tích nằm lọt vào thảm rừng nguyên sinh, với những cây cổ thụ như ôm ấp và che chở các dấu tích của một thời lịch sử oai hùng. Nơi đây như một quần thể của sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người, du khách sẽ được hít thở không khí trong lành, tắm và vui đùa trên dòng thác, một khung cảnh hữu tình đầy chất thơ mà thiên nhiên ban tặng cho con người


Khi nhắc đến lịch sử đấu tranh cách mạng của tỉnh Gia Lai, ai cũng phải nhớ địa danh “Krong”. Đó là nơi đứng chân của Tỉnh ủy Gia Lai suốt 20 năm tròn (1955 - 1975), nơi chứng kiến những quyết sách táo bạo cho Gia Lai toàn thắng. Từ trung tâm huyện Kbang, theo đường Đông Trường Sơn, du khách đi khoảng 50km là đến căn cứ của Tỉnh ủy Gia Lai ở xã Krong. Băng qua một con suối, mấy cánh đồng là đến nền nhà của trụ sở Tỉnh ủy cũ; còn đó bếp Hoàng Cầm, nhà kho, sân bóng chuyền… Đó là khu trung tâm, còn nguyên vùng căn cứ thì nằm trên phạm vi rất nhiều xã: Đắk Roong, Kon Pne, Lơ Ku... Từ xã Sơ Ró (huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai), cuối năm 1955, Tỉnh ủy Gia Lai quyết định chuyển căn cứ về đây để tiện cho hoạt động cách mạng vì địa thế phù hợp, có rừng dày đặc bao bọc tứ phía, lại giáp 2 tỉnh Kon Tum và Bình Định. Tại đây, “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, Tỉnh ủy Gia Lai đã hoạt động cho đến ngày giải phóng.