Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013
Nét thanh lịch của người Hà Nội được bảo tồn
Sáng 10/10, dự án "Hà Nội đẹp và chưa đẹp" do UBND TP Hà Nội, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội, Quỹ văn hóa Hà Nội tổ chức ra mắt. Trước giờ khai mạc, "Running man" Vũ Xuân Tiến cùng gần trăm sinh viên tình nguyện tham gia chạy để cổ vũ cho chương trình.
Theo ông Nguyễn Khắc Lợi, Phó Giám đốc Sở VHTT&DL Hà Nội, nét thanh lịch, ứng xử văn minh vốn là những giá trị văn hóa phi vật thể riêng và đáng quý của thủ đô Hà Nội. Vì vậy bảo tồn và không ngừng nhân rộng, phát triển các giá trị văn hóa ấy trong đời sống là một yêu cầu cấp thiết đặt ra với Hà Nội, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Gợi nét thiếu nữ Chăm với thổ cẩm Châu Phong
Bước vào làng Chăm là bạn đã lạc vào một thế giới khác. Mỗi làng Chăm luôn có một thánh đường Hồi giáo bề thế, uy nghi. Nhà cửa có nét kiến trúc riêng với các hoa văn trang trí và nội thất mang nét đặc trưng của dân tộc Chăm. Thấp thoáng bên song cửa sổ là những cô gái đang ngồi quay tơ, dệt thổ cẩm. Phụ nữ Chăm rất đẹp, trong bộ trang phục truyền thống càng thêm duyên dáng...
An Giang - một tỉnh thuộc miền Tây nam Bộ có làng nghề truyền thống dệt thổ cẩm Chăm nổi tiếng. Nằm phía bên kia sông Hậu, đối diện thị xã Châu Đốc là làng Chăm Châu Phong (thuộc thị xã Tân Châu), đây là làng Chăm cổ và còn mang đậm nét đặc trưng văn hóa Chăm ở vùng châu thổ Cửu Long. Làng Chăm Châu Phong nằm dọc theo hai bên bờ kênh Vĩnh An hiền hòa.
Làng nghề truyền thống dệt thổ cẩm Châu Giang của người Chăm nằm tại ấp Phum Xoài, xã Châu Phong, huyện Tân Châu, An Giang, nổi tiếng với tên gọi "Thổ cẩm Phum Xoài". Ngoài nông nghiệp và đánh bắt thủy sản, phần lớn người dân ở đây sinh sống chủ yếu bằng nghề thổ cẩm với nhiều loại sản phẩm cẩm đa dạng: Sàrông, khăn choàng, nón, áo khoác và các mặt hàng ví, túi xách, dép... mang đậm nét đặc trưng của người Chăm Nam Bộ.
Dệt thổ cẩm là nghề mà bất cứ người phụ nữ Chăm nào cũng phải biết. Khi được 10- 12 tuổi, những thiếu nữ người Chăm đã được tập những thao tác đơn giản nhất của nghề dệt. Thổ cẩm của người Chăm hiện nay khác trước rất nhiều nhưng vẫn giữ được những hoa văn truyền thống. Chất liệu chủ yếu được sử dụng là tơ công nghiệp và được nhuộm màu thủ công từ nước nấu của cây rừng. Nhuộm màu sợi, màu vải là bí quyết được lưu truyền nhiều đời nay trong cộng đồng người Chăm ở An Giang. Đồng bào Chăm cũng khéo léo, sản phẩm họ làm ra là những chiếc khăn choàng tắm, sà rông đầy màu sắc, thổ cẩm tinh xảo, túi đeo và đặc biệt là những chiếc khăn bịt tóc đẹp mắt.
Sử lược về dân cư cho biết dân tộc Chăm xuất hiện ở vùng đất An Giang từ thế kỷ 19. Khoảng năm 1840, Khâm Sai đại thần nhà Nguyễn là Lê Văn Đức cùng với Trương Minh Giảng từ trấn Tây Thành (Campuchia) lui về Châu Đốc, hàng binh lính có một số đông người Chăm Hồi Giáo và thân binh theo cùng. Dân binh về đây chọn nơi cư trú dọc theo sông Bình Di và cặp triền sông Hậu.
Cộng đồng dân cư Chăm lúc đầu chọn phương kế sống bằng nhiều nghề như: đánh bắt thủy sản, dệt vải… Nghề dệt thổ cẩm Chăm ở xã Châu Phong hình thành rất sớm. Trước là phục vụ cho nhu cầu ăn mặc của gia đình, sau là để trao đổi hàng hoá với các dân tộc khác.
Lúc đầu, người thợ dệt còn là một nông dân. Nhưng khi cộng đồng phát triển, có sự phân công lao động đòi hỏi sản phẩm dệt phải có tính nghệ thuật vừa mang tính hàng hoá. Những thợ dệt chuyên nghiệp bắt đầu xuất hiện tại vùng này và sản phẩm thổ cẩm cũng ngày càng đặc sắc hơn.
Có một thời gian, nghề dệt ở Châu Phong bị “chựng” lại do khó khăn trong khâu nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Một số bỏ nghề dệt sang làm nghề khác. Làng dệt đứng trước nguy cơ bị thất truyền. Năm 1997, sau khi tìm hiểu nguyện vọng của bà con, Sở Công nghiệp tỉnh An Giang quyết định hỗ trợ nguồn vốn vay từ chương trình khuyến nông của tỉnh, tạo điều kiện cho nơi đây phát triển theo mô hình du lịch cộng đồng gắn với làng nghề. Đây là quyết định không những tạo điều kiện rất tốt để phát triển kinh tế địa phương, kinh tế gia đình mà ý nghĩa hơn, đó sẽ là việc làm thiết thực góp phần giúp đồng bào dân tộc Chăm giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc mình.
Ở Châu Phong hiện nay có gần 500 hộ đồng bào Chăm, trong đó ấp Phũm Soài có khoảng 300 hộ và phân nửa trong số này làm nghề dệt thổ cẩm. Ở Châu Phong còn có cả một hợp tác xã mang tên Châu Giang tập trung nhiều xã viên dệt thổ cẩm để cung cấp cho thị trường trong và ngoài nước.
Sở dĩ nghề dệt thổ cẩm Chăm ở đây còn lưu giữ đến hôm nay là do tục “cấm cung”, tức con gái lớn lên không được ra ngoài, chỉ ở trong nhà dệt vải hay thêu thùa. Mặc dù tục “cấm cung” hiện nay không còn nữa nhưng sự khéo léo, tinh tế, tỉ mỉ của người phụ nữ Chăm Châu Phong vẫn không mất đi. Nhờ những nét hấp dẫn và độc đáo ấy nên làng Châu Phong được ngành du lịch An Giang chọn làm làng du lịch cộng đồng. Ở đây đã thành lập Trung tâm Thông tin Du lịch Châu Phong có nhiệm vụ quảng bá làng du lịch cộng đồng, làng dệt Châu Phong, giới thiệu cho du khách nét văn hóa và sản phẩm của người Chăm.
Đặc biệt, trung tâm này còn tổ chức nhiều tour cho du khách trong và ngoài nước tham quan Châu Phong, trong đó có tour homestay với chương trình “Trở thành một người Chăm”. Du khách sẽ ăn, ngủ tại nhà người Chăm, cùng sinh hoạt với họ, thưởng thức chương trình âm nhạc Chăm, tập vài thao tác dệt thổ cẩm hay vài điệu múa Chăm… Đặc biệt, khách còn được thưởng thức những món ăn truyền thống của người Chăm như: Cà ri bò, lạp xưởng bò, gỏi sầu đâu, bánh Chăm…
Đến Châu Phong bây giờ du khách như lạc vào một thế giới khác. Những thánh đường Hồi giáo bề thế, uy nghi, nhà cửa có nét kiến trúc riêng với các hoa văn trang trí và nội thất mang nét đặc trưng của dân tộc Chăm. Thấp thoáng bên song cửa sổ là những cô gái đang ngồi quay tơ, dệt thổ cẩm. Phụ nữ Chăm rất đẹp, trong bộ trang phục truyền thống họ càng trở nên duyên dáng hơn.
Chị Mariya, chủ cơ sở dệt thổ cẩm Chăm Aly, cho biết: "Có một thời gian thổ cẩm Chăm ở đây tưởng chừng như mai một do thiếu nguyên vật liệu và gặp khó trong khâu tiêu thụ, nhưng đây là nghề do ông cha truyền lại nên chúng tôi đã rất cố gắng gìn giữ". Thời gian qua, chị Mariya đã tổ chức dạy nghề cho gần 30 học viên là con em đồng bào dân tộc Chăm và hiện tại ngoài công việc đồng áng, mỗi người thu được khoảng 30.000 đồng/ngày từ việc dệt thổ cẩm, đây là khoản thu nhập không cao nhưng đã giúp phụ nữ đồng bào dân tộc Chăm cải thiện đời sống gia đình.
Xã Châu Phong có trên 200 thợ dệt, nhưng thợ dệt được những tấm thổ cẩm độc đáo thì không nhiều. Chị Mahriêm là "hạt gạo cội" của làng dệt thổ cẩm người Chăm Châu Giang, mới ba mươi hai tuổi đời mà có tới hơn 20 năm theo nghề. Mahriêm là nghệ nhân của làng dệt thổ cẩm Châu Giang, được Bộ VHTT (cũ) cử làm đại diện cho 1 trong 6 loại hình di sản văn hóa ở ĐBSCL tham dự lễ hội "Mekong dòng sông kết nối các nền văn hóa" do Viện Smithsonian tổ chức tại Hoa Kỳ năm 2007. Sự kiện này được các xã viên HTX Châu Giang xem như cơ hội quý để giới thiệu những tấm thổ cẩm độc đáo được sản xuất thủ công tại An Giang với du khách quốc tế.
Năm 2008, thực hiện Dự án du lịch phát triển tiểu vùng sông Mekong do Ngân hàng Châu Á (ADB) tài trợ với nguồn vốn ưu đãi, An Giang đầu tư xây dựng loại hình du lịch cộng đồng (dự án hỗ trợ Trung tâm thông tin du lịch cộng đồng Chăm tại xã Châu Phong) với kinh phí 60.000 USD, kết thúc vào cuối năm 2009. Trung tâm sẽ phục vụ công tác quảng bá hình ảnh làng thổ cẩm người Chăm, giới thiệu, trao đổi, giao lưu văn hóa dân tộc, gắn kết du lịch Homestay với khẩu hiệu "Một ngày làm người Chăm", tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc Chăm An Giang có cơ hội làm du lịch, nâng cao đời sống và phát triển nghề đan thêu, dệt thổ cẩm truyền thống.
Arsenal mê mẩn vẻ đẹp của Hà Nội

Giám đốc kinh doanh Arsenal Tom Fox ấn tượng về vẻ đẹp Việt Nam. Ảnh: AR.
Đã quá quen với những khung cảnh hiện đại ở các thành phố lớn, vẻ đẹp có phần mộc mạc của Hà Nội lại khiến các thành viên trong đoàn tiền trạm Arsenal bất ngờ thích thú. Trong lần đầu đến Việt Nam vào tháng 3, Giám đốc kinh doanh Arsenal Tom Fox và Giám đốc marketing Angus Kinnear được đưa đi thăm rất nhiều địa điểm nổi tiếng của Hà Nội. Đến đâu, hai ông này cũng ngỡ ngàng trước nét đẹp không giống bất cứ nơi nào mà họ từng đi qua.
Doanh thu du lịch TP.HCM hơn 63.000 tỉ đồng
Theo báo cáo của Sở VH-TT&DL TP.HCM, tổng lượng khách quốc tế đến TP.HCM trong chín tháng năm 2013 ước đạt trên 2,8 triệu lượt người, tăng 3% so cùng kỳ năm 2012 và đạt 68% kế hoạch năm 2013.
Tổng doanh thu du lịch chín tháng đầu năm 2013 ước đạt hơn 63.000 tỉ đồng, tăng 20% so cùng kỳ năm trước và đạt 77% kế hoạch năm 2013 (kế hoạch 2013 là gần 82.000 tỉ đồng).
Trong chín tháng, Sở đã xây dựng kế hoạch triển khai chương trình kích cầu du lịch năm 2013 với nhiều hoạt động phong phú, đa dạng. Bên cạnh chương trình tháng 9 khuyến mãi hằng năm, Sở dự kiến tổ chức Chương trình Du lịch mua sắm tháng khuyến mãi Sài Gòn 2013 (Saigon Grand Sales Fair 2013) vào tháng 12-2013 tại tất cả điểm mua sắm đạt chuẩn phục vụ du lịch, trung tâm mua sắm, chợ có nhiều khách du lịch tham quan (như Bến Thành, Bình Tây), điểm bán hàng của tất cả nhà hàng, khách sạn, lữ hành, vận chuyển, dịch vụ phục vụ du lịch (chăm sóc sức khỏe, bán hàng lưu niệm…).
Ninh Bình - Muôn mầu về làng cói Kim Sơn
Với làng nghề muôn màu sắc của Kim Sơn đã toát lên sự hấp dẫn và thân thương của nơi đây. Trên con đường nhỏ dẫn vào khu di tích lịch sử Nhà thờ đá Phát Diệm, Kim Sơn (Ninh Bình) bạn sẽ ngỡ ngàng khi nhìn thấy vô vàn túi xách, mũ, hộp, dép, xe thồ, lọ hoa, lẵng hoa… tất cả toàn bằng cói.
Người dân Kim Sơn có đặc thù sống trong cái nôi làng nghề cói từ cách đây hàng trăm năm nên có đầy đủ tố chất của một người thợ thủ công chân chính, khéo léo, nhạy bén và đam mê nghề nghiệp. Nghề trồng cói, chế biến cói ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình nổi tiếng xa gần và được người dân tiêu dùng trong và ngoài nước rất ưa chuộng.
Năm 1829, Kim Sơn, huyện “Núi Vàng”, như cái tên do Nguyễn Công Trứ, nhà doanh điền sứ tài ba thành lập. Ông đã viết hai câu thơ mà sau này dường như đã trở thành phương châm sống của ông: “Đã mang tiếng ở trong trời đất. Phải có danh gì với núi sông”. Cái “danh” ấy là cái công nghiệp lớn lao để lại cho hậu thế muôn đời, của một con người có tầm nhìn xa trông rộng và có chí lớn, đã biến tiềm năng của một vùng duyên hải màu mỡ, bao la trở thành một “núi vàng” thực sự, bằng cây cối, bằng lúa, cói và kinh tế biển. Kể từ đó đến nay, người Kim Sơn cùng với bao nhiêu thế hệ kế tiếp nhau, bảy lần mở đất, lấn biển, “Tranh công cùng tạo hoá”. Khu vực lấn biển rộng lớn bao la nhất là nông trường Bình Minh, được khai khẩn từ năm 1954, bằng công sức của các chiển sĩ sư đoàn 304. Gần đây, vào những năm 1981, 1982, 1983, đoàn 500 thuộc Binh đoàn Quyết Thắng về quai đê lấn biển, để mở ra khoảng hai trăm héc ta đất trồng cói đồng và mấy trăm ha có bãi (kể cả vùng Cồn Thoi, Vân Hải ngày nay), lập thành các xã mới: Kim Hải, Kim Trung, Kim Tiến… tổng diện tích của 6 lần lấn biển (sau Nguyễn Công Trứ) khoảng 4000 ha.
Trồng cói và dệt các sản phẩm cói đang trở thành nghề truyền thống rất quan trọng ở Kim Sơn. Đây là một nghề không thể thiếu được đối với số đông những người dân lao động. Nghề truyền thống này chưa có cội rễ xa xưa như một số nghề thủ công lâu đời (dệt, thêu, chạm khắc đá, nghề mộc…trong tỉnh), nhưng cũng đã trải qua khá nhiều thế hệ con người.
Từ thuở chưa có công cuộc khai khẩn của Nguyễn Công Trứ, cây cói nơi đây mọc chen lẫn với sú, vẹt trên các vùng bãi rộng, hoang vu. Cây cói mọc ngoài bãi hoang, có phần ngọn thót lại, phần gốc to, bè ra ba góc. Loại này được dùng để dệt chiếu thô hay thảm cói. Còn cây cói được trồng và chăm sóc trên đồng ruộng có thân tròn, thon thả từ gốc đến ngọn, có thể dệt những hàng có cấp như: chiếu đậu, chiếu cải, chiếu cờ. Trước kia, hàng cói Kim Sơn chủ yếu xuất sang các nước Đông Âu. Ngày nay, các nước thuộc Liên Xô (cũ) và Đan Mạch, Na uy, Nhật Bản, Trung Quốc vẫn nhập hàng cói Kim Sơn với số lượng đáng kể.
Cây cói có chu kỳ sinh trưởng tựa cây lúa. Cói chiêm thu hoạch vào dịp tháng Năm, cói mùa vào dịp tháng Mười (âm lịch). Sau khi hoa cói đã héo, tương ứng với kỳ hoa vẹt nở trắng trên bãi biển mênh mông. Hoa cói mầu nâu, bình dị, thả phấn theo làn gió, lan toả khắp vùng cói vào mùa thu hoạch, thoang thoảng hương thơm dịu êm. Quy trình trồng cói cũng giống như cây lúa: cày, xới, phơi ải, tháo nước, cấy cói, rồi làm cỏ, sục bùn, bón phân. Chất lượng cói trồng phụ thuộc đáng kể vào việc điều phối nước mặn và nước ngọt theo tỷ lệ thích hợp, hài hoà. Hệ thống thuỷ lợi cho canh tác cây cói quan trọng không kém gì cây lúa.
Năng suất của cây cói đồng hiện nay đạt khoảng 5-10 tấn cói khô/1ha. Tuy nhiên, nếu hạch toán theo makéttinh thì canh tác cói còn kinh tề hơn trồng lúa. Một lần cấy cói, có thể cho 4-5 lần thu hoạch. Mặt khác, cói là nguyên liệu tạo công ăn việc làm cho những làng nghề dệt cói. Phải kể đến các làng nghề nổi tiếng: Thượng Kiệm (gần thị trấn Phát Diệm), là nơi đã ra đời sản phẩm chiếu cải đầu tiên. Kiến Thái, Đồng Đắc, Yên Bình, Yên Lộc, Tây Bắc, Văn Hải, Mỹ Hợp, Tân Khẩn… Đó là các làng nghề dệt chiếu cói nổi tiếng từ lâu. Các sản phẩm chiếu cói từ đó chuyển đi khắp nơi trong và ngoài nước. Trên “vùng đất mở” Kim Sơn, cây cói mềm mại, óng ả, có vai trò là sợi nối giữa biển với bờ; giữa những con người cần cù, khoẻ mạnh với thiên nhiên trù phú, bao la. Cây cói còn là sợi nối Kim Sơn với các miền trong nước và trên thế giới, góp một phần không nhỏ để phát triển kinh tế, văn hoá và du lịch. Thế mạnh của nghề trồng cói và dệt cói ở Kim Sơn là sản xuất ra những sản phẩm tiêu dùng thiết yếu của nhân dân. Do vậy, nghề này tuy cực nhọc mà không hề mai một. Cây cói ở đây cũng chính là “quân tiên phong” lấn biển, chinh phục tự nhiên. Khẩu hiệu “lúa lấn cói” cói “lấn biển” là phương châm chinh phục thiên nhiên của hàng vạn người dân Kim Sơn.
Để có được một sản phẩm cói mỹ nghệ đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, kỹ thuật trồng và sản xuất cói của Kim Sơn cũng khá đặc biệt. Đó là cả một quy trình công phu, tỉ mỉ và chính xác ngay từ lúc trồng cói, thu hoạch cói, chọn cói, chẻ cói, phơi cói, nhuộm cói… cho đến khâu cuối cùng là đan và hoàn thiện sản phẩm.
Điển hình như kỹ thuật sử dụng keo polyascera phun phủ lên bề mặt sản phẩm cói, vừa giúp định hình ổn định kiểu dáng công nghiệp, vừa nâng cao khả năng chống mốc, ẩm cho sản phẩm, nhất là trong quá trình xuất khẩu ra nước ngoài. Nhờ đó mà sản phẩm cói mỹ nghệ của Kim Sơn luôn đảm bảo chất lượng khi tới tay người tiêu dùng, góp phần rất lớn trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Cho đến nay, sản phẩm cói mỹ nghệ Kim Sơn đã được xuất khẩu đến hơn 20 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Vẻ đẹp Hà Nội – xưa và nay
Lời qua tiếng lại một chút nữa là choảng nhau, có khi thù hằn đến giết nhau, chỉ vì một cái nhìn đểu, một lời nói khích bác sĩ diện chẳng đâu vào đâu.

Đôi khi, trong cuộc sống hiện đại, gấp gáp, để chê một Hà Nội hiện nay có nhiều cái kém cỏi, chướng tai gai mắt, người ta thường so sánh: “Ngày xưa ấy à”, hay: "Ngày xưa thế này, ngày xưa thế nọ đến nỗi có một câu mong ước cửa miệng của không ít người nuối tiếc về một thời: "Bao giờ cho đến ngày xưa”…