Thứ Hai, 7 tháng 10, 2013

Số người đến Đà Lạt chơi mỗi năm bằng nửa dân số Tp.Hồ Chí Minh

 

Tp.HCM cũng đóng góp 2/3 số khách

Số người đến Đà Lạt chơi mỗi năm bằng nửa dân số Tp.Hồ Chí Minh 

 

Là một địa chỉ du lịch hấp dẫn, năm ngoái, Đà Lạt đã thu hút được gần 4 triệu lượt khách du lịch trong nước và quốc tế - theo như số liệu Dalattourist đưa ra.
 
Con số này tăng 70% so với 4 năm trước, tương ứng mức tăng trưởng bình quân 14,4%/năm và tương đương với một nửa dân số Thành phố Hồ Chí Minh (7,75 triệu người - theo số liệu của Tổng cục thống kê).
 
Khách du lịch đến Đà Lạt chủ yếu là khách nội địa, chiếm đến 95%.
 
Theo Dalattourist, khách nội địa chủ yếu đến từ Thành phố Hồ Chí Minh (63,3%), từ  Đồng bằng Nam Bộ (26,%), miền Trung và miền Bắc (10,7%).
 
Sức thu hút của Đà Lạt đối với du khách ở miền Trung, miền Bắc là rất lớn nhưng lượng khách chưa nhiều, một phần là do hệ thống giao thông còn hạn chế, phần khác do  điều kiện địa lý và các khu vực trên đã có các Trung tâm dịch vụ miền núi tương tự Đà Lạt như Sa Pa, Tam Đảo, Bà Nà … 
 
 Số người đến Đà Lạt chơi mỗi năm bằng nửa dân số Tp.Hồ Chí Minh (1)
 
 
Mùa đông khách của Đà Lạt bắt đầu từ tháng 2 đến hết tháng 8; mùa ít khách bắt  đầu từ tháng 9 đến trước Tết Nguyên đán. Tuy nhiên sự chênh lệch số lượng du khách giữa hai mùa không cao. Trong những năm gần đây, lượng khách đi nghỉ cuối tuần ở Đà Lạt rất đều đặn, đây là một thuận lợi rất cơ bản của du lịch Đà Lạt.
 
 
 
 
 
 
Lượng khách quốc tế dù cũng tăng gần 14%/năm nhưng mới chỉ đạt 200 nghìn người vào năm 2012. Nguyên nhân một phần là do công tác đầu tư sản phẩm du lịch mới còn chậm, đặc biệt là các sản phẩm cao cấp thu hút khách quốc tế.
 
 

 

Số người đến Đà Lạt chơi mỗi năm bằng nửa dân số Tp.Hồ Chí Minh (2)

Linh thiêng ngôi Miếu Nổi giữa sông nước Sài Gòn

Nằm giữa dòng chảy yên bình của sông Vàm Thuật, một nhánh của sông Sài Gòn, Miếu Nổi thuộc địa bàn phường 5 (quận Gò Vấp) như một ốc đảo nhỏ giữa bốn bề sóng nước và những vườn cây trái sum suê phía An Phú Đông (quận 12).

Miếu Nổi từ lâu không chỉ nổi tiếng linh thiêng mà còn là sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc, văn hóa của người Việt và người Hoa. Được dựng lên từ thế kỷ thứ 18, suốt mấy trăm năm qua, Miếu Nổi là điểm du lịch của thành phố.

 

 

Không ai biết chính xác miếu Nổi được dựng lên từ năm nào, chỉ nghe kể lại qua những giai thoại, mà những thế hệ ông bà từng sinh sống ở đây kể lại cho con cháu mình nghe.

Chuyện kể rằng, khoảng giữa thế kỷ 18, khi ấy, vùng đất Gia Định này còn vô cùng hoang sơ, thưa thớt dân cư. Có một người đàn ông làm nghề chài lưới, giữa đêm vô tình vớt được xác một phụ nữ ở thượng nguồn trôi về bèn đắp mộ, thờ cúng cho oan hồn người đã khuất. Tiếng lành đồn xa, những ngư dân khác cũng theo nhau tới thắp hương, cầu phúc trước ngôi mộ mỗi đêm giăng lưới với hi vọng sẽ có nhiều tôm cá, thuyền ghe thuận lợi đi về. Dần dà, không chỉ những ngư dân chài lưới quanh khúc sông Vàm Thuật mà những chủ ghe thuyền buôn bán qua đây cũng nán lại thắp hương, dâng lễ. Các cụ bô lão trong vùng bèn tập hợp con cháu, góp công của xây dựng ngôi miếu to hơn, đề phòng những lúc nước to, lũ lớn.

 

Ban đầu, chỉ là ngôi miếu nhỏ bằng tre và lá dừa. Theo thời gian, những nhà buôn ghé lại sửa sang mãi nên ngôi miếu cứ rộng ra thêm. Do địa hình khá đặc biệt, nên người dân thường gọi tên là miếu Nổi. Muốn qua miếu phải đi đò. Nhưng thực ra, miếu còn có một tên gọi khác do người Hoa đặt là miếu Phù Châu. Trước năm 1975, miếu là một điểm hành hương nổi tiếng của người dân Sài Gòn - Gia Định. Sau năm 1975, miếu gần như bị bỏ hoang, không người coi giữ và sửa sang.

Mãi cho đến năm 1989, một người Hoa tên Lục Câu sống tại địa phương đứng ra bỏ tiền và phát động mọi người sửa sang, khôi phục lại hoạt động của miếu. Ông Lục Câu, trưởng ban Quản lý miếu ngày nay, đã tự tay phác thảo và thực hiện tu sửa, đắp các hình tượng tại miếu. Đến nay, sau nhiều lần trùng tu, Phù Châu miếu đã trở thành một ngôi miếu khang trang, kiến trúc đặc sắc với nét văn hóa Việt - Hoa, là một trong những địa điểm tham quan, dâng hương của nhiều người.

 

Điều dễ dàng nhận thấy và hấp dẫn du khách nhất khi đến Miếu Nổi chính là những con rồng. Rồng hiện diện ở khắp nơi trong không gian của miếu Nổi. Ngay cổng chính cũng là một đôi rồng làm bằng đá cẩm thạch uốn lượn theo thế song long đấu đầu vô cùng oai phong lẫm liệt. Trong điện chính, các gian thờ bên trong, trái, phải đều có khắc rất nhiều đôi rồng theo thế long chầu rất sinh động, đẹp mắt. Ngoài ra, tám cột chính của miếu cũng đều có khắc rồng nổi uốn lượn ôm lấy thân cột vô cùng tinh xảo. Cuối cùng, hoành tráng nhất chính là hai con rồng dài chừng 15 mét ôm trọn mặt tiền của hòn đảo nhỏ nơi miếu tọa lạc.

Có thể nói, Miếu Nổi chính là một thế giới thu nhỏ của rồng vì trên miếu có hàng trăm con rồng ở rất nhiều tư thế, kiểu dáng khác nhau.

 

Chính những giai thoại ly kỳ về gò đất nổi lên giữa sông với ngôi miếu này đã khiến miếu Nổi trở nên linh thiêng và tôn nghiêm hơn. Và biến cù lao bỏ hoang, chỉ rộng khoảng 2500 mét vuông này, trở thành một vùng đất thiêng của xứ Sài Gòn - Gia Định suốt mấy trăm năm qua. Dù đi lại khó khăn hơn những nơi khác, miếu Nổi ngày ngày vẫn đón không ít lượt khách từ khắp nơi trong thành phố tìm đến. Để du lịch thưởng ngoạn cũng có, mà để thắp hương cầu mong bình an, làm ăn phát đạt cũng nhiều.

Năm 2010, miếu Nổi được công nhận di tích kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố. Tồn tại gần 300 năm, miếu Nổi chứng kiến không biết bao thăng trầm của lịch sử hình thành vùng đất Sài Gòn - Gia Định, và sự phát triển của TP.HCM hiện đại ngày nay. Miếu Nổi hiện trở thành điểm du lịch văn hóa tâm linh, có tên trong một số tour du lịch quanh TP.HCM.

Tránh xa những bộn bề của phố phường, Miếu Nổi  là địa điểm khá lý thú để du khách hòa mình vào thiên nhiên và cảnh sông nước êm đềm, thanh tịnh, trong mùi hương trầm lan tỏa khắp ngôi miếu thiêng.

Làng gốm Bát Tràng

Chú tôi có cái thú thích vác máy ảnh len lỏi khắp các ngõ ngách vùng miền, để khám phá những nét đẹp của nhiều làng nghề đặc sắc của Việt Nam còn lại qua hàng nghìn năm lịch sử với bao biến cố thăng trầm. Chú bảo, chính điều đó tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa nước ta. 

 

 
 
Tuần vừa rồi giữa hành trình đi lạc trong nền văn hóa sông Hồng chú có rủ tôi ghé thăm làng gốm Bát Tràng. Đó là nơi cho ra đời nhiều sản phẩm gốm sứ tinh tế, sống động, tràn đầy màu sắc quê hương. Nơi đây còn là một trong những điểm du lịch thú vị mà các du khách không nên bỏ lỡ.
 
Cách trung tâm Hà Nội chỉ 20km, nên khá thuận tiện cho một chuyến ghé thăm Bát Tràng. Đến đây du khách có thể tự mình khám phá các ngõ ngách  làng nghề, tham gia các sân chơi tập làm thợ gốm, hay đi bộ ra ven sông, ngắm những cảnh đẹp và tận hưởng không khí thoáng đãng của sông. Điều đặc biệt thú vị khi đến đây có lẽ là được lựa chọn cho mình những sản phẩm ưng ý nhất giữa một thế giới gốm sứ đa dạng, lấp lánh sắc màu được bàn tay lành nghề tạo nên từ nắm đất quê hương.
 
Gốm Bát Tràng là tên gọi chung cho các loại đồ gốm được sản xuất tại làng gốm Bát Tràng thuộc xã Bát Tràng (gồm hai thôn Bát Tràng và Giang Cao)  thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ban đầu đồ gốm Bát Tràng đã thuộc loại cao cấp, quý hiếm nhưng phần nhiều là đồ thờ: chân đèn, lư hương, bình hoa. Sau này các sản phẩm của làng gốm có nhiều thay đổi do thị hiếu phát triển, cộng với nhu cầu thị trường nên phổ biến là đồ gia dụng như bát, đĩa, bình, lọ. Đồng thời các loại gốm mỹ thuật, gốm sứ công nghiệp, đồ giả cổ, gốm xây dựng cao cấp đã dần được sản xuất nhiều hơn. 
 
Mỗi một người thợ gốm trong quá trình sáng tạo đều quan niệm sản phẩm gốm giống một cơ thể sống, có sự kết hợp hài hòa của Ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ nên còn mang cả yếu tố tinh thần, nét đẹp tâm hồn và sự tinh tế của con người. Tất cả hoà vào nhau để tạo nên một loại sản phẩm gốm đặc biệt, hài hòa về bố cục, màu sắc thanh nhã và tinh tế. Để làm ra đồ gốm người thợ gốm phải qua các khâu chọn đất, xử lý và pha chế đất, tạo dáng, tạo hoa văn, phủ men và cuối cùng là nung sản phẩm theo đúng kinh nghiệm truyền đời của dân làng gốm Bát Tràng là "Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò”. 
 
Chúng tôi kết thúc chuyến thăm Bát Tràng bằng một chuyến ngồi xe trâu ngắm cảnh. Chú tôi bảo đến đây để hiểu được từng chiếc bát, đĩa, lọ hoa…bằng gốm sứ mà ta vẫn nhìn thấy trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, không chỉ là một sản phẩm đơn thuần mà còn ẩn dấu sự tìm tòi sáng tạo đầy tinh tế và một tình yêu da diết với hồn đất, hồn người. 

 

Lang thang khắp nẻo Sapa

Một Sapa không còn lạ lẫm với những điểm đến nổi tiếng, những cung đường mạo hiểm… Nhưng trong mắt nhóm phượt thủ lần đầu tiên đặt chân đến vùng đất này, mọi thứ luôn hấp dẫn.

Thị trấn nhỏ bé Sapa nép mình ở độ cao trung bình từ 1500m-1800m nên có khí hậu ôn đới quanh năm. Phong cảnh hùng vĩ hoang sơ của vùng núi rừng Tây Bắc, chấm phá những nét văn hóa độc đáo của đồng bào dân tộc H’mong, Tày, Dao Đỏ… đã tạo nên một bản sắc rất riêng cho Sapa, làm xiêu lòng bất kì du khách nào khi đến với miền sơn cước này.

Thưởng thức đặc sản Sapa

Du khách đến Sapa để được tận mắt ngắm nhìn những khung cảnh đẹp như mơ của mây, núi, rừng, ruộng bậc thang nhưng cũng không bỏ lỡ cơ hội nếm hết các đặc sản ẩm thực tuyệt vời của phố núi. Danh sách đặc sản ở Sapa, Lào Cai rất dài, tôi chỉ xin giới thiệu một số món đặc sắc nhất như sau:

1. Rau tươi xứ lạnh

Trên nền khí hậu se lạnh, Sapa là xứ sở của các loại rau đặc trưng vùng ôn đới như súp lơ trắng, hoa lơ xanh, củ cải đỏ, su su, ngồng tỏi, ngồng cải… Rau trồng tại Sapa khi ăn có vị ngon đặc biệt, ngọt mềm hấp dẫn. Các món rau nổi tiếng nhất ở Sapa gồm: Su su luộc chấm muối vừng, ngồng cải xào tỏi, lẩu gà ăn với các loại rau…


Về Đà Nẵng nghe chuyện làng An Hải

An Hải, ngôi làng nằm tại quận Sơn Trà, TP biển Đà Nẵng mang trong mình nhiều câu chuyện lịch sử có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, rất đáng cho du khách suy ngẫm.

Ở một đất nước chạy dài bên bờ biển Đông như Việt Nam, có khá nhiều ngôi làng cùng mang tên An Hải. Tên làng là sự gửi gắm niềm mong mỏi của những cư dân Việt trông cho cuộc sống yên bình. Làng An Hải ở TP biển Đà Nẵng nay đã hòa cùng nhịp sống đô thị nhưng những câu chuyện còn được lưu giữ ở ngôi làng này vẫn ẩn chứa trong đó nhiều bài học cho hậu thế.

Làng An Hải là vùng đất trù phú ở hữu ngạn sông Hàn, xưa kia được xếp vào “Quảng Nam ngũ đại xã” (một trong năm xã lớn ở Quảng Nam). Ngôi làng này dưới triều vua Tự Đức đã được ban 4 chữ “Thiện tục khả phong” (khá khen thay phong tục tốt lành). Qua thời gian, những dấu nét xưa của làng giờ không còn nhiều nhưng sự hiện diện bền bỉ của ngôi đình có niên đại hơn 400 năm ở đây như một cuốn sách cổ để mỗi khi lần giở, chúng ta lại được một lần chạm hiểu vào quá khứ.

 

 

Mộ Trần Quang Diệu hiện nằm trong khuôn viên Nhà thờ Tiền hiền làng An Hải và Thoại Ngọc Hầu (Ảnh: Báo Đà Nẵng)

 

Tại làng An Hải có một ngôi nhà thờ tộc mang đến 2 dòng họ: Nhà thờ tộc Nguyễn – Trần Văn. Dân làng ở đây đều biết con cháu trong tộc này lúc sống mang họ Nguyễn và khi qua đời, trên bia mộ được ghi lại là họ Trần Văn. Những bậc cao niên làng An Hải kể lại việc làm này là nhằm tránh những hệ lụy sau khi dũng tướng Trần Quang Diệu bị xử chém và con cháu bị tru di.

Bên cạnh đó còn là một câu chuyện khác biệt về tình bạn thân thiết của dũng tướng Trần Quang Diệu và Thoại Ngọc Hầu - Nguyễn Văn Thoại - 2 con người thuộc 2 triều đại đối nghịch nhau trong lịch sử Việt Nam. Những câu chuyện xưa ở làng An Hải, có chuyện trong chính sử, có chuyện do các tộc họ truyền lại, có chuyện do dân gian yêu mến tạo dệt nên, song, tất cả đều mang những ý nghĩa về nhân sinh quan, rất đáng để tìm hiểu, suy ngẫm.